Người lao động là công dân Việt Nam thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bao gồm: Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn...
Hỏi: Tôi vào Công ty A làm việc từ ngày 15/10/2014 và đến ngày 15/12/2014thì tôi được ký Hợp đồng lao động chính thức (loại HĐ có xác định thời hạn 3 năm), đến ngày 30/08/2016 thì tôi viết đơn xin nghỉ việc. Sau 30 ngày (30/09/2016) thì giám đốc ký đồng ý cho tôi nghỉ việc, nhưng khi tôi đến Công ty để nhận sổ Bảo hiểm Xã hội thì tôi phát hiện ra Công ty chỉ đóng Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm thất nghiệp cho tôi từ tháng 12 năm 2015. Như vậy là trong thời gian thử việc Công ty không đóng các khoản Bảo hiểm cho tôi và khi tôi xin nghỉ việc thì Công ty cũng không thanh toán khoản trợ cấp thôi việc cho tôi. Công ty làm như vậy là đúng hay sai pháp luật về Lao động? (Bùi Linh - Hải Phòng)
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật gia Phạm Thị Mai Phương - Tổ tư vấn pháp luật lao động Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Thứ nhất, thời gian thử việc không tính vào thời gian đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp.
Điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội 2006 quy định về đối tượng đóng bảo hiểm xã hội:
"1. Người lao động là công dân Việt Nam thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bao gồm:a) Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng, kể cả hợp đồng lao động được ký kết giữa người sử dụng lao động với người đại diện theo pháp luật của người dưới 15 tuổi theo quy định của pháp luật về lao động;b) Người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng;…”
Khoản 1 Điều 43 Luật Việc làm 2013 quy định đối tượng bắt buộc tham gia bảo hiểm thất nghiệp:
"1. Người lao động phải tham gia bảo hiểm thất nghiệp khi làm việc theo hợp đồng lao động hoặc hợp đồng việc làm như sau:a) Hợp đồng lao động hoặc lao động làm việc không xác định thời hạn;b) Hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc xác định thời hạn;c) Hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng.Trong trường hợp người lao động giao kết hoặc đang thực hiện nhiều hợp đồng lao động quy định tại khoản này thì người lao động và người sử dụng lao động của hợp đồng lao động giao kết đầu tiên có trách nhiệm tham gia bảo hiểm thất nghiệp.”
Như vậy, thử việc không thuộc trường hợp phải tham gia Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp. Người lao động chỉ thuộc đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp sau khi ký hợp đồng lao động chính thức. Vì vậy, việc công ty bạn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp cho bạn từ tháng 12/2014 không vi phạm pháp luật lao động.
Thứ hai, về việc công ty không thanh toán khoản trợ cấp thôi việc cho bạn?
Căn cứ theo Điều 48 Bộ luật lao động năm 2012 quy định về trợ cấp thôi việc:
“1. Khi hợp đồng lao động chấm dứt theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 5, 6, 7, 9 và 10 Điều 36 của Bộ luật này thì người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương.2. Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc là tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động trừ đi thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc.3. Tiền lương để tính trợ cấp thôi việc là tiền lương bình quân theo hợp đồng lao động của 06 tháng liền kề trước khi người lao động thôi việc”.
Điều 36 Bộ luật lao động năm 2012 quy định về các trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động:
“1. Hết hạn hợp đồng lao động, trừ trường hợp quy định tại khoản 6 Điều 192 của Bộ luật này.2. Đã hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động.3. Hai bên thoả thuận chấm dứt hợp đồng lao động.4. Người lao động đủ điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm xã hội và tuổi hưởng lương hưu theo quy định tại Điều 187 của Bộ luật này.…”
Trường hợp của bạn, nếu làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên sẽ được hưởng trợ cấp thôi việc từ phía công ty, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương.
Trong trường hợp này bạn làm đơn khiếu nại lên người sử dụng lao động (người trực tiếp ký hợp đồng lao động với bạn, người trả lương cho bạn). Nếu người sử dụng lao động không giải quyết cho thì có thể gửi đơn khiếu nại lên Thanh tra lao động hoặc ban chấp hành công đoàn cơ sở để được giải quyết. Hoặc bạn có thể gửi đơn đến cơ quan, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động cá nhân đó là Hòa giải viên lao động hoặc Tóa án nhân dân (Điều 200 Bộ luật Lao động 2012)
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận