Khi đã hết thời hiệu khởi kiện, Tòa án chỉ giải quyết phân chia di sản khi tất cả người thừa kế theo pháp luật của người mất đồng ý phân chia di sản.
Hỏi: Bà nội tôi đã mất từ 25 năm trước. Từ đó đến giờ, phần đất là bà để lại do cha tôi đứng tên. Nay chú ruột của tôi quay lại yêu cầu chia di sản thừa kế đó. Đề nghị Luật sư tư vấn, chú của tôi có quyền yêu cầu chưa di sản không vì đã qua 25 năm rồi? (Phạn Tùng Linh - Bắc Cạn)
Luật gia Nguyễn Văn Nam - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Trường hợp của gia đình anh (chị) là tranh chấp về quyền thừa kế với bố anh (chị) và chú anh (chị) đều là những người đồng thừa kế di sản do bà anh (chị) để lại. Điều 645 Bộ luật Dân sự 2005 quy định thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế (nghĩa là 10 năm kể từ khi bà anh (chị) mất, trong đó không tính thời gian từ 1/7/1996 đến 1/1/1999 vì bà anh (chị) mất trước ngày 1/7/1991, căn cứ điểm a mục 2.2 Phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP). Như vậy trường hợp gia đình anh (chị) đã hết thời hiệu khởi kiện.
Tuy nhiên, để giải quyết những vướng mắc về thời hiệu khởi kiện về thừa kế, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 và hướng dẫn như sau:
- Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau:
+ Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và thoả thuận việc chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo di chúc.
+ Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thỏa thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của họ.
+ Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung.
Áp dụng quy định trên có thể thấy:
Khi đã hết thời hiệu khởi kiện, Tòa án chỉ giải quyết phân chia di sản của bà anh (chị) khi tất cả người thừa kế theo pháp luật của bà anh (chị) đồng ý phân chia di sản. Những người này bao gồm cụ anh (chị) (bố mẹ đẻ hoặc bố mẹ nuôi của bà anh (chị)), ông anh (chị) (chồng hợp pháp của bà anh (chị)), và tất cả con của bà anh (chị) (bao gồm bố anh (chị), chú anh (chị), và tất cả người con khác nếu có).
Theo đó, khi mảnh đất là di sản của bà anh (chị), chỉ cần bố anh (chị) không đồng ý phân chia thì Tòa sẽ không giải quyết để xem xét chia cho chú anh (chị).
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận