Bố của anh sau khi được chuyển nhượng đã làm thủ tục đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liên với đất; đây là chứng thư được Nhà nước công nhận, người sở hữu tài sản sẽ được pháp luật bảo vệ. Do đó người đã chuyển nhượng đất không có quyền...
Hỏi: Năm 1992 cô ruột tôi là Nguyễn Thị L vì chuyển nơi cư trú nên có nhường lại cho bố tôi căn nhà và toàn bộ đất đai mà bà đang sở hữu. Việc chuyển nhượng này có sự thỏa thuận của hai bên bằng biên bản viết bằng tay và được xác thực của cơ quan cấp xã. Cho nên bố tôi đã đăng ký chuyển quyền sử dụng đất trên do ông đứng tên. Căn nhà đó thì lâu ngày nên đã tự sụp đổ, còn mảnh đất thì anh trai tôi đang sử dụng, nhưng tháng 7/2015 này, bà Nguyễn Thị L đã về và yêu cầu bố tôi trả lại căn nhà và mảnh đất. Tôi muốn hỏi bố tôi có phải trả lại mảnh đất đó cho bà L không? (Nguyễn Trường Tộ - Thanh Hóa)
Theo như anh trình bày, bố của anh nhận chuyển nhượng của bà Nguyễn Thị L; đã thực hiện thủ tục đăng ký sang tên đăng ký quyền sở hữu quyền sửdụng đất và tài sản gắn liền với đất.
Khoản 16 Điều 3 Luật đất đai năm 2013 quy định về Giải thích từ ngữ như sau:
"16.Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đấtlà chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất".
Bố của anh đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liên với đất; đây là chứng thư được Nhà nước công nhận. Người sở hữu tài sản sẽ được pháp luật bảo vệ.
Nếu tranh chấp xảy ra, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liến với đất là chứng cứ quan trọng để UBND xã; Hội đồng xét xử xem xét khi tiến hành hòa giải tại UBND xã hoặc ra phán quyết khi giải quyết tranh chấp.
Anh có yêu cầu: Bà Nguyễn Thị L có quyền đòi lại thửa đất và ngôi nhà trên đất không?
Nếu giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và nhà ở gắn liền với đất đã được cấp cho bố của anh sau khi nhận chuyển nhượng của bà L thì bà L không có quyền đòi lại quyền sử dụng thửa đất và nhà ở gắn liền với đất.
Tuy nhiên, nếu bà L cho rằng quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm, bà vẫn có quyền yêu cầu UBND xã hòa giải, Tòa án giải quyết. Nếu bà L không đưa ra những căn cứ chứng minh yêu cầu của mình là đúng quy định của pháp luật, và dựa trên căn cứ là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; nhà ở gắn liên với đất UBND sẽ ra quyết định giải quyết tranh chấp hoặc Tòa án bác yêu cầu của bà L.
Điều 6 BLTTDS 2004 quy định về cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự như sau:
"1. Các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Toà án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh như đương sự”.
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật bất động sản mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận