-->

Chưa thành niên, phạm tội cướp giật, mức án thế nào là hợp lý?

Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm.

Hỏi: Em của tôi tham gia chở người đi cướp giật (nhóm có 11 người). Số tiền được chia là hơn 400.000 đồng. Khi em của tôi thực hiện hành vi thì chưa đủ 16 tuổi. Em của tôi sau đó được gia đình vận động ra tự thú, lần đầu phạm tội, trong quá trình điều tra thì thành khẩn khai báo, không bị kỷ luật hay bất cứ gì, nhân thân tốt.
Vừa rồi tòa án tuyên án phạt em của tôi 03 năm 09 tháng tù. Đề nghị Luật sư tư vấn, mức với tội như trên và những tình tiết giảm nhẹ như nhân thân, tự thú, thành khẩn khai báo như vậy thì mức án là như thế nào mới hợp lý? (Vũ Văn Lực - Tp Hồ Chí Minh)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Trần Bá Đông - Tổ tư vấn pháp luật Hình sự Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Điều 133 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 (BLHS) quy định về tội cướp tài sản như sau: “1. Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: a) Có tổ chức;...”.

Theo đó, em anh (chị) thực hiện hành vi cùng với một nhóm 11 người, vậy thuộc trường hợp phạm tội có tổ chức theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 133 BLHS. Phạm tội trong trường hợp này mức phạt sẽ là từ 7 năm đến 15 năm tù (tội phạm rất nghiêm trọng). Tuy nhiên, em anh (chị) chỉ tham gia thực hiện phạm tội với vai trò người giúp sức (vì là người lái xe).

Về quyết định hình phạt, Toà án căn cứ vào quy định của BLHS, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. Điều 12 BLHS quy định về Tuổi chịu trách nhiệm hình sự: “1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”.

Điều 46 BLHS quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Theo thông tin anh (chị) cung cấp, em anh (chị) sẽ có các tình tiết giảm nhẹ như: điểm h, điểm o, điểm p, điểm q quy định tại Điều 46 BLHS. Ngoài ra, người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi, như vậy, trường hợp của em anh (chị) sẽ là người chưa thành niên phạm tội. Đây là trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng, nên dù là chưa đủ 16 tuổi nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này khi phạm tội với lỗi cố ý.

Tuy nhiên, khi áp dụng hình phạt, Tòa án sẽ căn cứ vào các quy định tại Chương X Bộ luật Hình sự Quy định đối với người chưa thành niên phạm tội. Điều 74 BLHS quy định về tù có thời hạn đối với người chưa thành niên phạm tội: “1. Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá mười tám năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định; 2. Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá mười hai năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định”.

Đồng thời, Tòa sẽ căn cứ Điều 53 BLHS quy định về hình phạt trong trường hợp đồng phạm: “Khi quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm, Toà án phải xét đến tính chất của đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm. Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự thuộc người đồng phạm nào, thì chỉ áp dụng đối với người đó”.

Như vậy, việc quyết định hình phạt sẽ do Hội đồng xét xử quyết định căn cứ vào các quy định của pháp luật.Từ những phân tích trên, anh (chị) có thể đối chiếu với các quy định mà Tòa án đã áp dụng với em anh (chị) để có thể kháng cáo khi phát hiện sai sót.

Khuyến nghị:

  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật hình sự mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.