-->

Chồng di chúc cho cháu toàn bộ di sản, vợ con có được hưởng thừa kế

Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng được hưởng di sản thừa kế không phụ thuộc vào di chúc

Hỏi: Hiện tại nhà tôi có 7 công đất ruộng, nhưng quyền sở hữu là do ba tôi đứng tên. Ông cho cháu ông sử dụng 2 công đất để trồng lúa. Nhưng không có cam kết là được hưởng bao nhiêu % doanh thu khi cháu ông thu hoạch được lúa. Vì ba tôi nghĩ tình chú cháu. Vậy tôi phải làm cách nào để Cháu của ông cam kết và chia % Doanh thu khi thu hoạch lúa. Nếu ba tôi đột ngột mất đi và không có di chúc thì tôi và mẹ tôi có quyền sở hữu 7 công đất đó hay không? Vì ba tôi đứng tên sổ đỏ và ba mẹ tôi chưa đăng kí giấy kết hôn (đã chung sống lâu) nhưng trong sổ hộ khẩu đã ghi mẹ tôi là vợ còn tôi là con. Nếu trường hợp có di chúc cho cháu của ba tôi thì me và tôi có được hưởng quyền sử dụng đất còn lại hay không?(Ngọc Hằng - Hà Đông)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Văn Nam - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:


Thứ nhất, mẹ bạn và bạn đã có tên trong sổ hộ khẩu gia đình với chức danh là vợ và con, đồng thời thời gian chung sống đã lâu như bạn nói, nên theo quy định của pháp luật hôn nhân gia đình thì những trường hợp chung sống với nhau từ trước năm 1987 thì được coi là vợ chồng mà không cần đăng ký kết hôn mà nhà nước khuyến khích; trường hợp sau 1987 trở đi thì phải đăng ký kết hôn mới được công nhận quan hệ vợ chồng theo điều 3 Nghị quyết 35/2000/QH10. Trong trường hợp của bạn vì mẹ bạn có tên trong hộ khẩu gia đình với quan hệ là vợ và bạn là con thì coi như xác lập quan hệ chính thống. theo đó quan hệ giữa ba và mẹ bạn là quan hệ vợ chồng như vậy xuất hiện các quyền và nghĩa vụ theo Luật Hôn nhân và gia đình 2014.

Việc 7 công đất nếu đứng tên quyền sở hữu của ba bạn mà không phải ba bạn đứng tên đại diện của chủ hộ thì đó là tài sản riêng của ba bạn. Nếu ba anh có sáp nhập tài sản riêng đó thành tài sản chung của vợ chồng thì mẹ bạn có quyền can thiệp còn nếu ba bạn không có sáp nhập tài sản là 7 công đất đó vào tài sản chung của vợ chồng thì mẹ bạn không được can thiệp vào. Vì quyền sở hữu đối với tài sản theo quy định của pháp luật dân sự thì đó là toàn bộ quyền đối với tài sản đó và những người khác chỉ được phép khi được chủ sở hữu uỷ quyền.

Thứ hai, nếu trường hợp ba bạn mất mà không để lại di chúc thì xử lý phân chia di sản theo pháp luật. phần tài sản chung chia đôi mẹ bạn sẽ được 1 nửa còn phần tài sản của ba bạn thì sẽ chia cho những người thừa kế theo hàng thừa kế thứ nhất. cụ thể theo quy định tại khoản 1 điều 676 Bộ Luật dân sự thì : “ hàng thừa kế thứ nhất gồm vợ, chồng, cha đẻ, mẹ để, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết” và những phần bằng nhau cho những người đồng thừa kế ( theo khoản 2 điều 676 BLDS năm 2005).

Trường hợp nếu ba bạn để di chúc để lại cho cháu mà 7 công ruộng là toàn bộ di sản của ba bạn thì theo quy định của pháp luật điều 669 Bộ Luật dân sư 2005 thì :

“Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 642 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 điều 643 của Bộ luật này:

1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;

2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động.”

Theo đó mẹ bạn vẫn được hưởng 2/3 1 suất thừa kế nếu chia theo pháp luật. Còn bạn thì không được hưởng nếu bạn không chứng minh được bạn chưa thành niên hoặc bạn đã thành niên mà không có khả năng lao động.

Khuyến nghị:

  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.