-->

Chia tài sản thừa kế theo pháp luật như thế nào?

Công ty Luật TNHH Everest tư vấn trường hợp người chết không để lại di chúc và những người thừa kế tranh chấp di sản thừa kế.

Hỏi: Ông bà nội tôi có 6 người con trai và 3 người con gái (hiện tại còn 2) hiện cả 2 đã mất có để lại mảnh đất 20000m2 nhưng không có di chúc. Cha mẹ tôi là út đã sống chung với ông bà nội từ trước đến giờ (gần 30 năm) và đến giờ vẫn còn ở nhà của ông bà nội và thờ cúng. Mấy bác tôi trước đây ông nội đã chia đất cho hết ngay từ lúc lập gia đình còn mấy cô thì không cho, trước đây mấy bác tôi có làm giấy từ chối nhận tài sản và giấy ủy quyền tài sản cho cha tôi (năm 2010) nhưng bây giờ thì mấy bác bàn nhau lại giành chia đất lại. Đề nghị Luật sư tư vấn, muốn làm giấy tờ đất sang tên cho cha mẹ tôi thì làm như thế nào? Và nếu đưa ra tòa thì mảnh đất ấy sẽ chia cho mấy bác mấy cô và cha tôi ra sau? (Mạnh Cường - Thái Bình)

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Thanh Thu - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế Công ty Luật TNHH Everest trả lời:

Điều 645 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về thời hiệu khởi kiện về thừa kế:

"Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".

Vì anh (chị) không đưa thông tin cụ thể về thời điểm ông bà anh (chị) mất nên chúng tôi không thể xác định thời điểm mở thừa kế, vì vậy sẽ tư vấn theo 02 trường hợp:

1- Hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế

Trường hợp này, có thế khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung theo Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP quy đinh hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyếtcác vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình:

"Không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế:a) Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau:

a.1. Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và thoả thuận việc chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo di chúc.

a.2. Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thảo thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của họ.

a.3. Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung.

b) Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu bất hợp pháp hoặc thuê, mượn, quản lý theo uỷ quyền... thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản".

2- Còn thời hiệu khởi kiện về thừa kế

Khi khởi kiện yêu cầu chia thừa kế: Vì ông bà nội anh (chị) mất không để lại di chúc nên phần di sản 2000m2 đất sẽ được chia theo pháp luật như sau:

Điều 676 Bộ luật Dân sự 2005 quy định người thừa kế theo pháp luật

"1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản".

Như vậy, 07 người con của ông bà nội anh (chị) sẽ được hưởng phần thừa kế bằng nhau chia từ phần di sản do ông bà nội anh (chị) để lại.

Vì anh(chị) không nói rõ ông bà nội anh (chị) mất năm nào nên khó có căn cứ xác định.

Nếu như các bác anh (chị) có làm giấy từ chối nhận tài sản và giấy ủy quyền tài sản cho cha anh (chị) vào năm 2010 lúc này ông bà bạn đã mất (trong 06 tháng) thì phần thừa kế đó sẽ thuộc về cha anh (chị). Và cha anh (chị) có thể làm thủ tục sang tên quyền sử dụng đất sau khi làm thủ tục khai nhận di sản thừa kế tại Văn phòng công chứng. Cụ thể thủ tục sang tên:

* Thẩm quyền: Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thuộc Phòng tài nguyên và môi trường cấp huyện nơi có đất.

* Hồ sơ gồm: bản chính văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế có công chứng; Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở; giấy tờ khác (giấy tờ tùy thân, giấy chứng tử…).

* Thủ tục: Văn phòng đăng ký nhà đất sau khi nhận hồ sơ sẽ có trách nhiệm thẩm tra hồ sơ, làm trích sao hồ sơ địa chính; gửi số liệu địa chính cho cơ quan thuế để xác định nghĩa vụ tài chính (nếu có); chỉnh lý giấy chứng nhận đã cấp hoặc thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận đối với trường hợp phải cấp mới giấy chứng nhận; Sau khi bên nhận thừa kế thực hiện xong nghĩa vụ tài chính, Văn phòng đăng ký nhà đất có trách nhiệm trao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà cho chủ sở hữu.

Nếu như các bác anh (chị) có làm giấy từ chối nhận tài sản và giấy ủy quyền tài sản cho cha anh (chị) vào năm 2010 lúc này ông bà anh (chị) chưa mất thì giao dịch đó vô hiệu bởi lẽ lúc đó chưa phát sinh quyền thừa kế nên không có quyền định đoạt. Di sản vẫn chia đều cho các người con.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.