Khi một bên vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì bên còn sống quản lý tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế thỏa thuận cử người khác quản lý di sản.
Hỏi: Trường hợp mà người vợ mất sớm, gia đình còn người cha và ba người con một người đã thành niên, sau khi người vợ mất tất cả tài sản đều do người chồng đứng tên và người chồng có ý định lấy vợ hai, người vợ hai đó có 2 người con đã thành niên. Vậy nếu sau này người bố mất thì tài sản sẽ được chia như thế nào và 2 người con của vợ hai kia có được hưởng tài sản hay không? Giá trị như thế nào? (Hữu Thế - Ninh Bình)
Luật gia Nguyễn Thành Đạt - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình 2014, tại Điều 66 quy định:
"Khi một bên vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì bên còn sống quản lý tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế thỏa thuận cử người khác quản lý di sản.
Khi các yêu cầu về chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản. Phần tài sản của vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế.
Trong trường hợp việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của vợ hoặc chồng còn sống, gia đình thì vợ, chồng còn sống có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế phân chia di sản theo quy định của Bộ luật dân sự.
Tài sản của vợ chồng trong kinh doanh được giải quyết theo quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này, trừ trường hợp pháp luật về kinh doanh có quy định khác”.
Sau khi vợ chết, thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi. Phần tài sản chia đôi thuộc về người vợ, cộng thêm tài sản riêng của người vợ ( nếu có ) sẽ được chia thành 4 phần bằng nhau. Di sản đó sẽ được chia đều cho người chồng và 3 đứa con theo quy định tại Điều 676 Bộ luật dân sự 2005:
"1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau”
Trường hợp người chồng lấy đi bước nữa, người vợ thứ 2 đó có 2 người con riêng. Nếu người chồng sau này mất thì tài sản có thể được chia theo 2 cách.
Thứ nhất, người chồng để lại di chúc thì tài sản sẽ được chia theo di chúc.
Thứ hai, người chồng chết mà không có di chúc thì sẽ được chia theo quy định của pháp luật thừa kế được quy định tại Bộ luật dân sự 2005.
2 người con của người vợ thứ 2 có thể được hưởng di sản thừa kế nếu trong di chúc có ghi nhận việc chia di sản cho họ. Và trong trường hợp, người chồng chết không có di chúc thì theo quy định tai Điều 679 Bộ luật dân sự 2005 thì:
"Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 676 và Điều 677 của Bộ luật này”.
Theo đó, chỉ khi họ có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì mới được thừa kế theo quy định của pháp luật. Trường hợp này thì di sản được hưởng của 2 người con riêng sẽ bằng nhau và bằng với người vợ thứ 2 và 3 người con của người vợ đầu tiên.
Khuyến nghị:
- Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
- Nội dung tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận