Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận.
(Lao động) - Trước khi kết hôn, chồng tôi được bố mẹ cho thửa đất để xây nhà. Sau kết hôn, vợ chồng tôi đã xây dựng căn nhà 03 tầng trên mảnh đất này (bằng tiền do bố mẹ chồng cho). Sau đó, chúng tôi nộp hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và sở hữu nhà ở mang tên hai người. Nay chúng tôi ly hôn, tôi có quyền yêu cầu chia tài sản này không (Nguyễn Bích Hạnh, Cầu Giấy, Hà Nội).
Theo quy định tại Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, thì: "Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung".
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận.
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất.
Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng.
Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung.
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 cũng quy định cụ thể về tài sản riêng của vợ chồng (tại khoản 1 Điều 29, Điều 30, Điều 32): Tài sản riêng của vợ, chồng gồm: Tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; Tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; Tài sản được chia riêng trong trường hợp vợ, chồng thoả thuận (bằng văn bản) chia từ khối tài sản chung khi hôn nhân đang tồn tại để đầu tư kinh doanh riêng và hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản có được trong trường hợp này.
Như vậy, quyền sử dụng thửa đất và căn nhà trên đất có nguồn gốc là tài sản riêng của chồng chị. Tuy nhiên, sau đó vợ, chồng chị làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở và trên Giấy chứng nhận này ghi tên của cả hai vợ chồng, có nghĩa là hai người đã thỏa thuận gộp khối tài sản riêng thành tài sản chung. Vợ, chồng chị có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản chung. Trường hợp vợ, chồng chị có đơn yêu cầu tòa án giải quyết việc ly hôn, chị có quyền yêu cầu được chia khối tài sản trên.
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật doanh nghiệp mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Tại thời điểm quý vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Theo Báo Lao động, ngày 26.03.2012.
Bình luận