Nam nữ chung sống như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn có được hưởng thừa kế của nhau hay không?

Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn

Hỏi: Tôi có một việc muốn nhờ luật sư tư vấn cho tôi. Năm 1996 mẹ tôi mất bố tôi lấy một người vợ lẻ nhưng không đăng kí kết hôn và có một người con gái với gì nay đã đi xây dưng gia đình. Năm 2012 bố tôi đã mất và để lại một ngôi nhà rộng 100 mét vuông và không có di chúc. Nay ngôi nhà nằm trong diện giải tỏa. Vậy gì tôi có được hưởng quyền thừa kế tài sản bố tôi để lại. Mà nếu được thì sẽ phân chia thế nào? (Nguyễn Hưng - Hải Dương)


Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Trần Bảo Ngọc - Tổ tư vấn pháp luật Hôn nhân và Gia đình của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Điểm b khoản 3 Nghị quyết số 126/2014 về việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.“3.Việc áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 11 của Luật này được thực hiện như sau:a) Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03 tháng 1 năm 1987,ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì đượcTòa án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôncủa Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;b) Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03 tháng 1 năm 1987 đến ngày01 tháng 1 năm 2001, mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này thìcó nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệulực cho đến ngày 01 tháng 1 năm 2003; trong thời hạn này mà họ không đăng kýkết hôn, nhưng có yêu cầu ly hôn thì Tòa án áp dụng các quy định về ly hôn củaLuật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.Từ sau ngày 01 tháng 1 năm 2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng;c) Kể từ ngày 01 tháng 1 năm 2001 trở đi, trừ trường hợp quy định tại điểm a vàđiểm b khoản 3 của Nghị quyết này, nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồngmà không đăng ký kết hôn, đều không được pháp luật công nhận là vợ chồng nếu có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng;nếu có yêu cầu về con và tài sản thì Tòa án áp dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 17của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết".

Theo thông tin bạn cung cấp, bố bạn và người vợ hai sống chung với nhau từ năm 1996 mà sau năm 2003 vẫn không đăng kí kết nên không được công nhận là vợ chồng.

Về tài sản, đối với trường hợp chung sống như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn thì theo nguyên tắc tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó; tài sản chung được chia theo thoả thuận của các bên; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết, có tính đến công sức đóng góp của mỗi bên; ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và con.Do bạn không nói rõ nguồn gốc của ngôi nhà trên là từ đâu và ai đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên khi xảy ra tranh chấp, nếu người vợ hai chứng minh được đó là tài sản riêng hoặc bà có đóng góp công sức trong việc tạo lập tài sản đó thì bà vẫn được hưởng một phần giá trị khối tài sản trên.

Về thừa kế, theo quy định tại Điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005 thì hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: Vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.Vợ sẽ được thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của chồng và ngược lại. Tuy nhiên, chỉ coi là vợ chồng nếu hai bên nam nữ kết hôn hợp pháp. Do người vợ hai chung sống với bố bạn nhưng không đăng ký kết hôn nên không được pháp luật công nhận là vợ chồng và không được hưởng thừa kế theo pháp luật (vì không có di chúc).Khi bố bạn mất không để lại di chúc thì người thừa kế theo pháp luật sẽ là các con, bao gồm người con gái (ngoài giã thú) của bố bạn với vợ hai (nếu bố mẹ của bố bạn còn sống thì họ cũng được hưởng thừa kế).


Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật Hôn nhân và Gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.