Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản thừa kế, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế...
Hỏi: Ông bà ngoại tôi có 8 đứa con chung. Năm 1990, ông ngoại tôi mất và không để lại di chúc. Căn nhà hiện nay bà ngoại tôi ở là tài sản chung của ông bà ngoại tôi. Đến nay, căn nhà này gồm có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng bên Bà ngoại tôi. Năm 2013, bà ngoại tôi có làm sổ hồng, tất cả gần xong thì dì tôi (con gái bà) gửi đơn vào cơ quan (nơi cấp sổ hồng) nội dung là tài sản thừa kế nên đây là tài sản chung bà ngoại tôi không có quyền làm sổ hồng. Vì vậy, cơ quan này gửi về cho bà tôi văn bản thông báo với nội dung như trên dẫn đến ngoại tôi đến nay vẫn không làm được sổ hồng. Tôi có đọc văn bản luật và một vài web tư vấn luật có vài trường hợp tương tự như trường hợp này. Tôi thấy ghi nếu thời hạn thừa kế quá 10 năm không tranh chấp và cũng không có thoả thuận là tài sản chung (căn nhà) thì tài sản sẽ thuộc sở hữu người đang sử dụng (bà ngoại). Ngoài ra, nếu trường hợp đơn tranh chấp tài sản thừa kế khi vô hiệu thì chỉ cần 1 trong những người thừa kế (cậu tôi) không đồng ý đây là tài sản chung chưa chia thì tài sản (căn nhà) này vẫn thuộc quyền sở hữu của ngoại tôi đúng không? (Thanh Tuyền - Hải Dương)
Về thời hiệu khởi kiện chia thừa kế được quy định tại Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 như sau:
"Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế...”.
Như vậy nếu yêu cầu chia di sản thừa kế thì thời hiệu khởi kiện là 10 năm. Hết thời hạn này thì người được thừa kế không có quyền khởi kiện nữa.
Về chia tài sản chung là di sản của người chết để lại, theo quy định tại điểm 2.4 điều 2 mục I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán TANDTC thì trường hợp hết thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế nêu trên nhưng nếu đáp ứng được các điều kiện theo quy định tại Nghị quyết thì di sản đó sẽ trở thành tài sản chung của các đồng thừa kế, cụ thể như sau:
“a. Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau:
a.1. Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và thoả thuận việc chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo di chúc.
a.2. Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thỏa thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của họ.
a.3. Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung”.
Theo quy định của pháp luật thì việc mở di sản thừa kế của ông bạn để lại phát sinh khi ông bạn mất. Kể từ thời điểm đó, di sản thừa kế được chia đều cho bà của bạn cùng 8 người con. Ông của bạn mất vào năm 1990 và cho đến năm 2013 bà ngoại bạn mới đi làm sổ hồng và có vấn đề xảy ra là dì của bạn không đồng ý với việc này. Nhưng có thể thấy rằng kể từ khi ông bạn mất là năm 1990 cho đến thời điểm năm 2013 đã quá quá 10 năm mà di sản thừa kế này chưa chia và trong thời gian đó cũng không ai có yêu cầu chia di sản này. Do đó, đến thời điểm năm 2013 thì những người thừa kế không còn quyền yêu cầu chia phần di sản này nữa.
Như vậy, để có thể phân chia di sản thừa kế này thì cần có sự đồng ý của tất cả các đồng thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc các thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do ông của bạn để lại chưa chia. Khi đó, di sản này sẽ trở thành tài sản chung của các thừa kế.
Khi thuộc sử hữu chung thì bà ngoại của bạn có thể làm sổ hồng khi:
+ 8 người con còn lại làm hợp đồng tặng cho phần đất của mình đối với bà ngoại bạn (có công chứng) hoặc 8 người làm thủ tục từ chối nhận di sản hợp pháp theo quy định của pháp luật để bà ngoại bạn thừa kế hết phần di sản của ông bạn để lại.
+ Còn trường hợp có một người không muốn tặng, cho phần di sản của họ cho bà ngoại của bạn thì họ sẽ là chủ sở hữu phần di sản đó. Và khi đó bà của bạn cũng sẽ không thể làm sổ hồng được.
Khuyến nghị:
- Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
- Nội dung tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận