Nhiều công ty đại chúng đang phải suy xét thận trọng đối với vấn đề trả cổ tức cho năm tới bằng cổ phiếu hay bằng tiền mặt?
Đối với nhà đầu tư là cổ đông hiện hữu hay tiềm năng, việc doanh nghiệp làm ra lợi nhuận cao và thực hiện chia cổ tức là một thông tin quan trọng hàng đầu. Thông thường, với những doanh nghiệp quy mô lớn, hoạt động ổn định nhiều năm thường chọn hình thức chia cổ tức bằng tiền mặt. Tuy nhiên, có rất nhiều doanh nghiệp chọn hình thức chia cổ tức bằng cổ phần để đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển của mình.
Thứ nhất, quy định của pháp luật về cổ tức
Khoản 3 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định như sau: "Cổ tức là khoản lợi nhuận ròng được trả cho mỗi cổ phần bằng tiền mặt hoặc bằng tài sản khác từ nguồn lợi nhuận còn lại của công ty cổ phần sau khi đã thực hiện nghĩa vụ về tài chính";
"1. Cổ đông phổ thông có các quyền sau đây: b) Nhận cổ tức với mức theo quyết định của Đại hội đồng cổ đông" (điểm b khoản 1 Điều 114 Luật Doanh nghiệp năm 2014)
1- Cổ tức trả cho cổ phần ưu đãi được thực hiện theo các điều kiện áp dụng riêng cho mỗi loại cổ phần ưu đãi. 2- Cổ tức trả cho cổ phần phổ thông được xác định căn cứ vào số lợi nhuận ròng đã thực hiện và khoản chi trả cổ tức được trích từ nguồn lợi nhuận giữ lại của công ty. Công ty cổ phần chỉ được trả cổ tức của cổ phần phổ thông khi có đủ các điều kiện sau đây: a- Công ty đã hoàn thành nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật; b- Đã trích lập các quỹ công ty và bù đắp đủ lỗ trước đó theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty; c- Ngay sau khi trả hết số cổ tức đã định, công ty vẫn bảo đảm thanh toán đủ các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác đến hạn. 3- Cổ tức có thể được chi trả bằng tiền mặt, bằng cổ phần của công ty hoặc bằng tài sản khác quy định tại Điều lệ công ty. Nếu chi trả bằng tiền mặt thì phải được thực hiện bằng Đồng Việt Nam và có thể được chi trả bằng séc, chuyển khoản hoặc lệnh trả tiền gửi bằng bưu điện đến địa chỉ thường trú hoặc địa chỉ liên lạc của cổ đông. 4- Cổ tức phải được thanh toán đầy đủ trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày kết thúc họp Đại hội đồng cổ đông thường niên. Hội đồng quản trị lập danh sách cổ đông được nhận cổ tức, xác định mức cổ tức được trả đối với từng cổ phần, thời hạn và hình thức trả chậm nhất 30 ngày trước mỗi lần trả cổ tức. Thông báo về trả cổ tức được gửi bằng phương thức bảo đảm đến cổ đông theo địa chỉ đăng ký trong sổ đăng ký cổ đông chậm nhất 15 ngày trước khi thực hiện trả cổ tức. Thông báo phải có các nội dung sau đây: a- Tên công ty và địa chỉ trụ sở chính của công ty; b- Họ, tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số Thẻ căn cước công dân, Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của cổ đông là cá nhân; c- Tên, mã số doanh nghiệp hoặc số quyết định thành lập, địa chỉ trụ sở chính của cổ đông là tổ chức; d- Số lượng cổ phần từng loại của cổ đông; mức cổ tức đối với từng cổ phần và tổng số cổ tức mà cổ đông đó được nhận; đ- Thời điểm và phương thức trả cổ tức; e- Họ, tên, chữ ký của Chủ tịch Hội đồng quản trị và người đại diện theo pháp luật của công ty. 5- Trường hợp cổ đông chuyển nhượng cổ phần của mình trong thời gian giữa thời điểm kết thúc lập danh sách cổ đông và thời điểm trả cổ tức thì người chuyển nhượng là người nhận cổ tức từ công ty. 6- Trường hợp chi trả cổ tức bằng cổ phần, công ty không phải làm thủ tục chào bán cổ phần theo quy định tại các điều 122, 123 và 124 của Luật Doanh nghiệp năm 2014. Công ty phải đăng ký tăng vốn điều lệ tương ứng với tổng giá trị mệnh giá các cổ phần dùng để chi trả cổ tức trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày hoàn thành việc thanh toán cổ tức" (Điều 132 Luật Doanh nghiệp năm 2014).
Bản chất của trả cổ tức bằng cổ phiếu là chia tách cổ phiếu, điều thường thấy ở những doanh nghiệp có giá cổ phiếu quá cao. Nguồn chia cổ tức là phần lợi nhuận giữ lại sẽ được bổ sung vào vốn điều lệ, giúp công ty tăng vốn.
Thứ hai, lợi ích từ việc chia cổ tức bằng cổ phần
Trong mùa đại hội cổ đông năm nay, và cho đến gần giữa năm 2018, nhiều doanh nghiệp lớn đua nhau trả cổ tức bằng cổ phiếu. Tỷ lệ trả cổ tức càng cao thì nhà đầu tư càng nhận được nhiều “giấy”. Số “giấy” này thực sự có giá trị hay không còn tùy thuộc vào ban lãnh đạo doanh nghiệp sử dụng số lợi nhuận giữ lại chuyển sang vốn điều lệ kia có hiệu quả hay không.
Các nhà đầu tư có thể sẽ bị thiệt nhãn tiền khi nhận cổ tức bằng cổ phiếu trong trường hợp cổ phiếu đang được giao dịch dưới mệnh giá, nhưng giá áp dụng cho cổ phiếu trả cổ tức vẫn bằng mệnh giá.
Một số nhà đầu tư cho rằng, với những cổ phiếu có thị giá cao thì nhận cổ tức bằng cổ phiếu có lợi hơn tiền mặt. Điều này chưa hẳn đúng. Bởi lẽ, dù được số cổ phiếu nhiều hơn nhưng giá cổ phiếu sẽ bị điều chỉnh giảm tương ứng, bản chất cũng như cũ. Một số trường hợp, việc trả cổ tức chỉ nhằm qua mặt nhà đầu tư về dòng tiền yếu kém của doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp nhiều năm trả cổ tức bằng cổ phiếu liên tục. Cái lợi duy nhất của hình thức trả cổ tức này có lẽ giúp nhà đầu tư “né thuế”.
Lợi lộc gần như không có nhưng nhận cổ tức bằng cổ phiếu khiến nhà đầu tư đối mặt nhiều rủi ro hơn khi nhận tiền mặt. Chẳng hạn cổ phiếu đang có xu hướng điều chỉnh giảm giá nhưng phải chờ 1-2 tháng cổ phiếu mới về tài khoản. Đến khi cổ phiếu về, nhà đầu tư có nguy cơ bị thiệt lớn. Ngoài ra, nếu trả cổ tức bằng cổ phiếu dưới mệnh giá thì nhà đầu tư sẽ bị thiệt hại. Bởi trên danh nghĩa, nhà đầu tư nhận cổ phiếu hạch toán theo mệnh giá 10.000 đồng/cp, nhưng thị giá thấp hơn.
Tóm lại, trả cổ tức bằng cổ phiếu vẫn giúp doanh nghiệp giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư, tăng vốn điều lệ để mở rộng thêm các hạn mức cho vay hay huy động vốn (đối với ngành ngân hàng), đồng thời giúp cho giá cổ phiếu trở nên có ưu đãi hơn và mang lại tâm lý không thể thêm được trong giới đầu tư.Sâu xa hơn, việc trả cổ tức này sẽ gia tăng giá trị cho cổ đông trong tương lai, căn bản vẫn dựa trên hiệu quả kinh doanh của chính doanh nghiệp.
Luật gia Nguyễn Thị Hoài Thương - Phòng tư vấn doanh nghiệp của Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn 1900 6198, sưu tầm, tổng hợp.
Khuyến nghị:
- Bài viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
- Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị đây chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
- Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 19006198, E-mail: [email protected], [email protected].
Bình luận