Tài sản chung vợ chồng được xác định theo Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014
Hỏi: Bạn tôi kết hôn năm 2008 với chị Nguyễn thị A. Sau đó Một năm bạn tôi đi Xuất khẩu lao động ở úc. Hàng tháng vẫn gửi tiền về nhà cho vợ.trong thời gian từ năm 2009.đến năm 2014 tình cảm vợ chồng vẫn bình thường.nhưng đầu năm 2015 thì xẩy ra mâu thuẫn dẫn tới ly hôn. Khi bạn tôi về để Giải quyết ly hôn và chia tài sản thì xẩy ra Một vấn đề Như sau. Trong thời gian bạn tôi gửi tiền về ở nhà vợ bạn tôi Có mua Một mảnh đất Trị giá 4tỷ đồng và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng Tên Một mình người vợ là chị Nguyễn thị A.và khi giải quyết phân chia tài sản chị Nguyễn thị A không chịu đưa mảnh đất đó vào tài sản chung.và bảo đó là tài sản riêng của chị A.bạn tôi không có quyền đòi chia tài sản đó. Như vậy Có đúng không? Vì theo tôi được biết mọi tài sản được hình thành sau thời điểm kết hôn đều là của chung giữa hai vợ chồng.nếu Như vậy thì tài sản đó người chồng cũng có quyền được chia phải không? xin Luật sư tư vấn giúp. (Hoàng Hà - Hà Đông)
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198Luật gia Nguyễn Thanh Thu - Tổ tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình Công ty Luật TNHH Everest trả lời:
Điều 33Luật hôn nhân và gia đình 2014 có quy định tài sản chung của vợ chồngnhư sau:
“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng…”
Có 2 trường hợp được đặt ra như sau:
Trường hợp 1: Nếu người vợ chứng minh được đã sử dụng tài sản riêng (gồm tài sản hình thành trước thời kỳ hôn nhân hoặc tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân do được tặng cho riêng, thừa kế riêng) của mình để nhận chuyển nhượng (mua) diện tích đất này. Thì diện tích đất này sẽ được xác định là tài sản riêng của người vợ, và người chồng sẽ không có quyền đối với tài sản này.
Trường hợp 2: Người vợ sử dụng tài sản chung của vợ chồng để nhận chuyển nhượng thì diện tích đất này là tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân, hoặc người vợ không thể chứng minh được mình thuộc trường hợp 1 đã phân tích ở trên thì sẽ được xác định là tài sản chung vợ chồng.
Về việc chỉ có người vợ đứng tên trong GCNQSDĐ thì Điều 34. Đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản chung, quy định:
“1. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác…”
Như vậy, về nguyên tắc vợ và chồng có nghĩa vụ đăng ký quyền sử dụng đất, song nếu các bên có thỏa thuận về việc cho 1 người dứng tên trong giấy chứng nhận thì tài sản này vẫn xác định là tài sản chung. Do vậy, tuy chỉ có người vợ đứng tên trong GCNQSDĐ nhưng đây vẫn được xác định là tài sản chung vợ chồng và theo nguyên tắc thì tài sản sẽ được chia đôi.
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật hôn nhân gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận