Đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 01 tháng 7 năm 2004... được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
Hỏi: Gia đình tôi có một mảnh đất vỡ hoang năm 1992, gia đình tôi có đơn đề nghị xin cấp đất được Ủy ban nhân dân (UBND) xã xác nhận năm 1992 với nội dung như sau: Tạo điều kiện cho gia đình sản xuất và canh tác, được phép làm nhà trên diện tích đất vỡ hoang đó với diện tích là 260,0 m2. Hiện nay gia đình tôi đang sinh sống tại thửa đất trên nhưng diện tích hiện tại là 529,0 m2, xung quanh nhà tôi là ruộng canh tác. Đề nghị Luật sư tư vấn, giờ gia đình tôi muốn làm cấp giấy chứng nhận thì được cấp bao nhiêu diện tích và diện tích đất ở có được 300,0m2 không (300,0 m2 là hạn mức tại địa phương). Do UBND xã lúc đó xác nhận là được phép sản xuất, canh tác và làm nhà trông coi nên không biết có được cấp đất ở không? (Đỗ Mạnh - Bắc Ninh)
Luật gia Nguyễn Thị Yến - Tổ tư vấn pháp luật Đất đai của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Khoản 2 Điều 101 Luật Đất đai năm 2013 quy định về Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà không có giấy tờ về quyền sử dụng đất như sau:
“1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà không có các giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này, có hộ khẩu thường trú tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận là người đã sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.
2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 và không vi phạm pháp luật về đất đai, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt đối với nơi đã có quy hoạch thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất”.
Sự việc năm 1992, Ủy ban nhân dân xã cấp đất cho gia đình anh (chị) với diện tích 260 m2 đất vỡ hoang để tạo điều kiện cho gia đình bạn sản xuất và canh tác được phép làm nhà trên diện tích đất vỡ hoang này là sai thẩm quyền. Theo quy định tại Luật Đất đai 1987 thì thẩm quyền giao đất thuộc về Ủy ban nhân dân cấp huyện và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Theo thông tin anh (chị) cung cấp, hiện nay gia đình anh (chị) đang sinh sống trên diện tích đất là 529 m2. Đối với diện tích 260 m2 do ủy ban nhân dân xã giao đất cho gia đình anh (chị) là sai thẩm quyền cũng sẽ không được công nhận.
Như vậy, vì gia đình anh (chị) sử dụng đất từ năm 1992 nên nếu được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất không có trạnh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất… thì hộ gia đình anh (chị) sẽ được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trong đó, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất sẽ phải đảm bảo về hạn mức sử dụng đất. Theo thông tin anh (chị) đã cung cấp thì hạn mức sử dụng đất ở địa phương là 300 m2 nên cũng sẽ chỉ được xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với 300 m2 đất này.
Đối với 229 m2 đất còn lại, gia đình anh (chị) có thể chuyển sang thuê đất có thu tiền sử dụng đất để tiếp tục sử dụng phần diện tích đất này.
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật Đất đai mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận