-->

Các biện pháp tự vệ mà chủ thể bị vi phạm quyền sở trí tuệ có thể áp dụng

Chủ thể bị vi phạm quyền sở trí tuệ có thể áp dụng hay đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp dân sự, hình sự, hành chính, kiểm soát tại biên giới, hoặc các quy định về bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh, để bảo vệ quyền lợi của mình.

Thực thi các quy định của pháp luật cạnh tranh, pháp luật sở hữu trí tuệ đã đạt được nhiều thành tựu trong việc bảo vệ chủ thể bị vi phạm quyền sở trí tuệ. Thế nhưng, cũng cần thấy rằng, thực thi pháp luật trong lĩnh vực này gặp không ít khó khăn, đặc biệt là việc xác định rõ về nội hàm hành vi và nguyên tắc áp dụng pháp luật.

Trong phạm vi bài viết, chúng tôi phân tích: (i) Thực tế áp dụng pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp ở Việt Nam; (ii) Các biện pháp chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp trong pháp luật Việt Nam; (iii) Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp ở Việt Nam.

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Thực tế áp dụng pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp ở Việt Nam.

Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp ở Việt Nam được quy định lần đầu tiên tại Nghị định số 54/2000/NĐ-CP ngày 03/10/2000 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại và bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới sở hữu công nghiệp. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp là những hành vi do các chủ thể tiến hành trong quá trình kinh doanh; trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, liên quan đến sử dụng hoặc chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, của doanh nghiệp khác và người tiêu dùng.

Sau khi Luật Cạnh tranh năm 2004 (gọi tắt là Luật Cạnh tranh) và Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009 (gọi tắt là Luật Sở hữu trí tuệ) được ban hành, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp được quy định một cách cụ thể hơn. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp được xác định, bao gồm:

Một là, hành vi "chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn" được Luật Cạnh tranh quy định tại Điều 39 và Điều 40; Luật Sở hữu trí tuệ quy định tại Điều 130. Theo đó, chỉ dẫn gây nhầm lẫn bị coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh khi: (i) Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, hoạt động kinh doanh, nguồn gốc thương mại của hàng hoá, dịch vụ; (ii) Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về xuất xứ, cách sản xuất, tính năng, chất lượng, số lượng hoặc đặc điểm khác của hàng hoá, dịch vụ; về điều kiện cung cấp hàng hoá, dịch vụ ; (iii) Kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có sử dụng chỉ dẫn địa lý gây nhầm lẫn.

Hai là, hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh, được quy định tại Điều 39 và Điều 41 Luật Cạnh tranh. Theo đó, doanh nghiệp bị cấm thực hiện các hành vi sau đây: (i) Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của người sở hữu hợp pháp bí mật kinh doanh đó; (ii) Tiết lộ, sử dụng thông tin thuộc bí mật kinh doanh mà không được phép của chủ sở hữu bí mật kinh doanh; (iii) Vi phạm hợp đồng bảo mật hoặc lừa gạt, lợi dụng lòng tin của người có nghĩa vụ bảo mật nhằm tiếp cận, thu thập và làm lộ thông tin thuộc bí mật kinh doanh của chủ sở hữu bí mật kinh doanh đó; (iv) Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh của người khác khi người này làm thủ tục theo quy định của pháp luật liên quan đến kinh doanh, làm thủ tục lưu hành sản phẩm hoặc bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của cơ quan nhà nước hoặc sử dụng những thông tin đó nhằm mục đích kinh doanh, xin cấp giấy phép liên quan đến kinh doanh hoặc lưu hành sản phẩm.

Ba là, hành vi sử dụng nhãn hiệu được bảo hộ tại một nước là thành viên của điều ước quốc tế có quy định cấm người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu sử dụng nhãn hiệu đó. Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 130 Luật Sở hữu trí tuệ, hành vi sử dụng nhãn hiệu được bảo hộ tại một nước thành viên là thành viên của điều ước quốc tế có quy định cấm người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu sử dụng nhãn hiệu đó bị coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh khi thỏa mãn đầy đủ các điều kiện sau đây: (i) Nhãn hiệu được sử dụng được bảo hộ theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; (ii) Điều ước quốc tế có quy định cấm người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu sử dụng nhãn hiệu; (iii) Người sử dụng nhãn hiệu là người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu; (iv) Việc sử dụng không được sự đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu và không có lý do chính đáng.

Bốn là, hành vi đăng ký, chiếm giữ, sử dụng tên miền bất hợp pháp. Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 130 Luật Sở hữu trí tuệ, hành vi đăng ký, chiếm giữ, sử dụng bất hợp pháp tên miền bị coi là một trong những hành vi cạnh tranh không lành mạnh, đó là hành vi đăng ký, chiếm giữ quyền sử dụng hoặc sử dụng tên miền trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu, tên thương mại được bảo hộ của người khác hoặc chỉ dẫn địa lý của mình không có quyền sử dụng nhằm mục đích chiếm giữ tên miền, lợi dụng hoặc làm thiệt hại đến uy tín, danh tiếng của nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý tương ứng.

Các biện pháp chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp trong pháp luật Việt Nam.


Các biện pháp chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp được pháp luật Việt Nam quy định như sau:

Một là,
là quyền tự bảo vệ của các chủ thể quyền sở hữu công nghiệp. Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 quy định tương đối cụ thể về quyền tự bảo vệ (hay biện pháp khởi kiện dân sự) của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ (trong đó có quyền sở hữu công nghiệp), theo đó, “tổ chức, cá nhân bị thiệt hại hoặc có khả năng bị thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp dân sự quy định tại Điều 202 của Luật Sở hữu trí tuệ và các biện pháp hành chính theo quy định của pháp luật về cạnh tranh” (khoản 3 Điều 198). Các biện pháp dân sự có thể được áp dụng là: Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm; buộc xin lỗi, cải chính công khai; buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự; buộc bồi thường thiệt hại; buộc tiêu hủy hoặc buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hóa, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hóa xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ (Điều 202 Luật Sở hữu trí tuệ).

Bên cạnh đó, Nghị định số 71/2014/NĐ-CP ngày 21/7/2014 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Cạnh tranh về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh cũng quy định về bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh gây ra (trong đó có các hành vi cạnh tranh không lành mạnh về sở hữu công nghiệp), cụ thể là: “Tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác thì phải bồi thường. Việc bồi thường thiệt hại được thực hiện theo các quy định của pháp luật về dân sự”.


Thứ hai, biện pháp xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp. Luật Sở hữu trí tuệ cũng quy định rằng, tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh về sở hữu trí tuệ thì bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về cạnh tranh (khoản 3 Điều 211). Vì vậy, các hành vi cạnh tranh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp sẽ được áp dụng theo các quy định của Nghị định số 71/2014/NĐ-CP ngày 21/7/2014 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Cạnh tranh về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh.

Đối với hành vi sử dụng "chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn", theo khoản 2 Điều 28 của Nghị định số 71/2014/NĐ-CP, sẽ bị áp dụng hình phạt tiền từ 50 triệu đồng đến 100 triệu đồng, (áp dụng đối với cả hành vi kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có sử dụng chỉ dẫn chứa đựng thông tin gây nhầm lẫn)… Và theo khoản 3 Điều 28 này, sẽ bị phạt tiền gấp hai lần mức quy định trong các trường hợp hàng hóa, dịch vụ liên quan là các hàng hóa, dịch vụ thiết yếu theo quy định của pháp luật và thực hiện trên phạm vi từ hai đơn vị cấp tỉnh trở lên.


Đối với hành vi sử dụng nhãn hiệu được bảo hộ tại một nước là thành viên của điều ước quốc tế, nếu người sử dụng là người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu và việc sử dụng đó không được sự đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu và không có lý do chính đáng. Theo khoản 1 Điều 28 Nghị định số 71/2014/NĐ-CP, các hành vi trên sẽ bị áp dụng hình phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 40 triệu đồng.

Đối với hành vi đăng ký, chiếm giữ quyền sử dụng hoặc sử dụng tên miền. Chủ thể có quyền yêu cầu xử lý hành vi đăng ký chiếm giữ quyền sử dụng tên miền hoặc sử dụng tên miền là chủ sở hữu nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại đã sử dụng các đối tượng này một cách rộng rãi, ổn định trong hoạt động kinh doanh hợp pháp tại Việt Nam, được người tiêu dùng trong lĩnh vực liên quan biết đến uy tín, danh tiếng của chủ thể quyền sở hữu công nghiệp và hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại đó. Hành vi đăng ký chiếm giữ quyền sử dụng hoặc sử dụng tên miền bị coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh về sở hữu công nghiệp tại Việt Nam, trừ các trường hợp tên miền đã được phân bổ thông qua hình thức đấu giá hoặc thi tuyển theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 48 Luật Viễn thông.

Chủ thể yêu cầu xử lý hành vi đăng ký chiếm giữ quyền sử dụng hoặc sử dụng tên miền bị coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh về sở hữu công nghiệp phải là chủ thể hợp pháp và cung cấp các chứng cứ để chứng minh rằng, bên bị yêu cầu xử lý đã sử dụng tên miền trên mạng Internet để quảng cáo, giới thiệu sản phẩm, chào hàng, bán hàng hóa, dịch vụ trùng, tương tự hoặc có liên quan, làm thiệt hại đến uy tín, danh tiếng hoặc vật chất đối với chủ sở hữu nhãn hiệu, tên thương mại hoặc chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ. Theo khoản 1 Điều 28 Nghị định số 71/2014/NĐ-CP, các hành vi trên sẽ bị áp dụng hình phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 40 triệu đồng. Ngoài việc bị phạt tiền, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh về sở hữu công nghiệp còn có thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục như: (i) Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm bao gồm cả tịch thu khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm; (ii) Buộc cải chính công khai.


Thứ ba, về xử lý hình sự, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp được coi là vi phạm nghiêm trọng có thể bị truy tố theo Điều 217 - Tội Vi phạm quy định về cạnh tranh hoặc theo Điều 226 - Tội Xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Theo đó, người trực tiếp tham gia hoặc thực hiện các hành vi vi phạm quy định pháp luật về cạnh tranh nhằm thu lợi bất chính thì bị phạt tiền từ 200 triệu đồng đến 3 tỷ đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù đến 05 năm. Pháp nhân thương mại có thể bị phạt tiền đến 03 tỷ đồng, cấm kinh doanh, hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm.

Đối với người có hành vi cố ý xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam, thu lợi bất chính có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm, phạt tiền từ 50 triệu đồng đến 01 tỷ đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Pháp nhân thương mại vi phạm có thể bị phạt tiền đến 02 tỷ đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm.


Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp ở Việt Nam.


Thứ nhất, cần phải phân biệt rõ hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp thông thường và hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền sở hữu sở hữu công nghiệp

Pháp luật nước ta chưa phân định sự khác biệt rõ ràng giữa hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp thông thường với hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp. Điều này dẫn đến khó khăn cho việc áp dụng điều luật để giải quyết trong từng trường hợp cụ thể. Ngay cả những cơ quan chuyên môn như: Cục Sở hữu trí tuệ, Cục Quản lý cạnh tranh cũng gặp rất nhiều vướng mắc khi xem xét, giải quyết những vụ việc cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp. Có ý kiến cho rằng, hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ là hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp nhưng có yếu tố cạnh tranh không lành mạnh. Một số ý kiến khác lại cho rằng, cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp là hành vi cạnh tranh liên quan đến đối tượng sở hữu công nghiệp.


Một vấn đề khác cần quan tâm, đó là mục đích chủ quan của chủ thể thực hiện hành vi và tư cách chủ thể khởi kiện khi có các hành vi vi phạm. Theo quy định của Luật Cạnh tranh, khi xác định một hành vi cạnh tranh không lành mạnh xảy ra thì hành vi này bao giờ cũng xuất phát từ lỗi cố ý của chủ thể thực hiện là nhằm mục đích cạnh tranh. Điều 40 Luật Cạnh tranh đã chỉ rõ là hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn phải nhằm mục đích cạnh tranh. Bởi vậy, yếu tố lỗi cố ý với mục đích cạnh tranh là dấu hiệu quan trọng để xác định các hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo Luật Cạnh tranh. Nhưng trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, yếu tố lỗi không được xem là yếu tố quan trọng trong cấu thành hành vi vi phạm. Một khi các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ được đăng ký hay hình thành theo đúng các quy định của pháp luật thì các chủ thể khác được suy đoán là đã biết tới quyền của các chủ sở hữu này. Trong một số trường hợp, việc sử dụng chỉ dẫn trùng nhau (chẳng hạn: tên thương mại) nhưng không xuất phát từ việc cố ý. Cho nên, sẽ chỉ cấu thành hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp khi mà hành vi đó không được sự cho phép của chủ sở hữu. Theo kinh nghiệm xét xử của Tòa án Châu Âu (ECJ), bất kỳ hành vi lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ nào dẫn đến chia cắt thị trường, duy trì mức giá giả tạo hoặc bắt buộc những điều kiện mang tính chất phân biệt, không công bằng đối với đối tác kinh doanh khác đều có thể bị coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ. Theo kinh nghiệm của Nhật Bản, những vụ việc cạnh tranh liên quan đến đối tượng sở hữu công nghiệp đã được đăng ký bảo hộ được giải quyết theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ; những vụ việc cạnh tranh liên quan đến đối tượng sở hữu công nghiệp chưa đăng ký bảo hộ được giải quyết theo quy định của pháp luật cạnh tranh.

Thứ hai, cần thống nhất về nguyên tắc áp dụng pháp luật để xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp.

Theo quy định của khoản 3 Điều 211 Luật Sở hữu trí tuệ, tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh về sở hữu trí tuệ thì bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về cạnh tranh, tức là, các hành vi cạnh tranh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp sẽ được áp dụng theo các quy định của Nghị định số 71/2014/NĐ-CP ngày 21/7/2014 quy định chi tiết Luật Cạnh tranh về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh để xử lý. Thẩm quyền xử lý vi phạm thuộc về Cục Quản lý cạnh tranh - Bộ Công thương. Việc xử lý hành vi vi phạm quy định về cạnh tranh không lành mạnh phải tuân theo trình tự, thủ tục trong tố tụng cạnh tranh được quy định tại Chương V của Luật Cạnh tranh và các quy định tại Chương III của Nghị định số 116/2005/NĐ-CP ngày 15/9/2005 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh và Nghị định số 119/2011/NĐ-CP ngày 16/12/2011 về sửa đổi, bổ sung thủ tục hành chính tại Nghị định số 116/2005/NĐ-CP. Tuy nhiên, Điều 14 của Nghị định số 99/2013/NĐ-CP ngày 29/8/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp cũng có những quy định khá chi tiết về việc xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp. Thẩm quyền xử phạt các hành vi vi phạm thuộc về Thanh tra Khoa học và Công nghệ, Thanh tra Thông tin và Truyền thông, Quản lý thị trường, Hải quan, Công an; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện có thẩm quyền xử phạt hành vi vi phạm trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp xảy ra tại địa phương theo nguyên tắc xác định và phân định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính quy định tại Điều 38 và Điều 52 Luật Xử lý vi phạm hành chính…

Trên thực tế, hiện nay các hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp được giải quyết chủ yếu bằng các biện pháp xử phạt hành chính, mà trong đó, các cơ quan quản lý thị trường là cơ quan xử lý nhiều vụ nhất. Các biện pháp giải quyết vụ việc cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau như pháp luật cạnh tranh, pháp luật sở hữu trí tuệ, pháp luật dân sự, pháp luật hành chính, pháp luật hình sự. Công tác xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp với sự tham gia của rất nhiều cơ quan như: Cục Quản lý cạnh tranh, Thanh tra chuyên ngành về khoa học & công nghệ, Thanh tra chuyên ngành về thông tin - truyền thông, Quản lý thị trường, Công an, Hải quan… tạo nên sự chồng lấn về thẩm quyền, mâu thuẫn về trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc; không có giải pháp trong trường hợp không xác định được người đăng ký, chiếm giữ, sử dụng tên miền; thiếu quy định về cơ chế phối hợp giữa các cơ quan trong quá trình xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp…

Bởi vậy, đặt ra yêu cầu phải có sự thống nhất giữa Luật Sở hữu trí tuệ và Luật Cạnh tranh trong việc xác định nguyên tắc áp dụng pháp luật để xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh về sở hữu công nghiệp. Theo chúng tôi, Việt Nam nên học tập kinh nghiệm pháp luật và thực tiễn của Nhật Bản để xác định: (i) Những hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến đối tượng sở hữu công nghiệp đã được đăng ký bảo hộ, có chủ thể quyền sở hữu công nghiệp rõ ràng thì được giải quyết theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ; (ii) Những hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến đối tượng sở hữu công nghiệp chưa đăng ký bảo hộ được giải quyết theo quy định của pháp luật cạnh tranh.

Khi quyền sở hữu công nghiệp không tồn tại như trường hợp một nhãn hiệu hàng hóa hay tên thương mại mà không đăng ký, Luật Cạnh tranh sẽ đóng vai trò bổ sung, hoặc thay thế để bảo vệ doanh nghiệp chống lại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh từ phía đối thủ. Chủ thể bị vi phạm sẽ phải chứng minh được có hành vi cạnh tranh không lành mạnh với lỗi cố ý từ phía đối thủ cạnh tranh trên thị trường liên quan trong việc sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn.

Bài viết có sử dụng một số thông tin tham khảo tại Tạp chí Dân chủ và Pháp Luật (http://tcdcpl.moj.gov.vn/Pages/home.aspx) và Báo Công thương (http://baocongthuong.com.vn).

Luật gia Lê Thị Quỳnh - Phòng Sở hữu trí tuệ của Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn 1900 6198,
tổng hợp

Khuyến nghị:
  1. Bài viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị đây chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi đây có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 19006198, E-mail: [email protected], [email protected].