Khoản 2 Điều 44 Bộ luật Lao động năm 2012 quy định trong trường hợp vì lý do kinh tế mà nhiều người lao động có nguy cơ mất việc làm, phải thôi việc, thì người sử dụng lao động phải xây dựng và thực hiện phương án sử dụng lao động.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật gia Phạm Văn Lâm - Tổ tư vấn pháp luật Lao động Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Thứ nhất, về quyết định cho thôi việc của công ty:
Khoản 2 Điều 44 Bộ luật Lao động năm 2012 quy định trong trường hợp vì lý do kinh tế mà nhiều người lao động có nguy cơ mất việc làm, phải thôi việc, thì người sử dụng lao động phải xây dựng và thực hiện phương án sử dụng lao động theo quy định. Trong trường hợp người sử dụng lao động không thể giải quyết được việc làm mà phải cho người lao động thôi việc thì phải trả trợ cấp mất việc làm cho người lao động.
Như vậy, công ty có thể ra quyết định cho bạn nghỉ việc vì lý do kinh tế dẫn đến hậu quả công ty không chi trả được lương cho nhân viên.
Tuy nhiên việc cho người lao động thôi việc vì lý do kinh tế phải tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật. Nếu vì khó khăn kinh tế, công ty phải lập phương án sử dụng lao động với sự tham gia của tổ chức đại diện tập thể lao động tại cơ sở.
Về hậu quả của việc chấm dứt hợp đồng lao động:
Trường hợp 1: Do khó khăn về kinh tế, công ty không thể tiếp tục sử dụng lao động và buộc phải cho người lao động thôi việc: Khi thôi việc trong trường hợp này, người lao động sẽ được hưởng trợ cấp mất việc làm. Cứ mỗi năm làm việc được hưởng 1 tháng tiền lương. Như vậy, nếu bạn đã làm được 10 năm thì sẽ được nhận trợ cấp mất việc làm là 10 tháng tiền lương. Trường hợp công ty có tham gia đóng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động thì đối với khoảng thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp người sử dụng lao động không phải trả trợ cấp mất việc làm cho người lao động.
Trường hợp 2: công ty không gặp khó khăn về kinh tế nhưng vẫn cho người lao động nghỉ việc không đúng quy định của pháp luật: Điều 42 Bộ luật lao động quy định nghĩa vụ của người sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật như sau: “1. Phải nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết và phải trả tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong những ngày người lao động không được làm việc cộng với ít nhất 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động. 2. Trường hợp người lao động không muốn tiếp tục làm việc, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định trên, người sử dụng lao động phải trả trợ cấp thôi việc cho người lao động. 3. Trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao động và người lao động đồng ý, thì ngoài việc phải bồi thường 2 tháng tiền lương và trợ cấp thôi việc, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm nhưng ít nhất phải bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao động. 4. Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong hợp đồng lao động mà người lao động vẫn muốn làm việc thì người lao động vẫn được bồi thường 2 tháng tiền lương, ngoài ra hai bên thương lượng để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động. 5. Trường hợp vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước”.
Thứ hai, về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân.
Các tranh chấp về lao động thường bắt buộc phải thông qua thủ tục hòa giải cơ sở di hòa giải viên lao động giải quyết. Tuy nhiên đối với tranh chấp về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thì không bắt buộc phải thông qua thủ tục hòa giải.
Do vậy, bạn có thể yêu cầu 1 trong hai cơ quan sau để giải quyết tranh chấp:
- Hòa giải viên lao động, trường hợp này bạn có thể nộp đơn yêu cầu tới phòng lao động thương binh và xã hội để yêu cầu giải quyết.
- Tòa án nhân dân cấp huyện, nơi công ty có trụ sở hoặc Tòa án cấp huyện nơi bạn cư trú.
Khuyến nghị:
- Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
- Nội dung tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận