Xử phạt như thế nào khi đăng ký khai sinh quá hạn?

(Gia đình Việt Nam) - Trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày sinh con, anh (chị) có trách nhiệm đăng ký khai sinh cho con.


Hỏi: Vợ tôi sinh con đã 04 tháng, nhưng do quá nhiều việc nên chúng tôi chưa đăng ký khai sinh cho con. Đề nghị Luật sư tư vấn, bây giờ vợ chồng tôi bị phạt thế nào? (Bùi Anh Tuấn - Nam Định)
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật sư Nguyễn Thị Quyên - Tổ tư vấn pháp luật Hôn nhân và Gia đình của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Khoản 1 Điều 15 Luật hộ tịch năm 2014 quy định trách nhiệm đăng ký khai sinh như sau: “1. Trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày sinh con, cha hoặc mẹ có trách nhiệm đăng ký khai sinh cho con; trường hợp cha, mẹ không thể đăng ký khai sinh cho con thì ông hoặc bà hoặc người thân thích khác hoặc cá nhân, tổ chức đang nuôi dưỡng trẻ em có trách nhiệm đăng ký khai sinh cho trẻ em”.

Điều 27 Nghị định 110/2013/NĐ-CP của Chính Phủ ban hành ngày ngày 24 tháng 09 năm 2013 quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã quy định như sau: "Hành vi vi phạm quy định về đăng ký khai sinh: 1. Cảnh cáo đối với người có trách nhiệm đăng ký khai sinh cho trẻ em mà không thực hiện việc đăng ký đúng thời hạn quy định”.

Như vậy, trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày sinh con, anh (chị) có trách nhiệm đăng ký khai sinh cho con. Do đó, anh (chị) sinh con đã 04 tháng mà chưa đăng ký khai sinh cho con thì theo quy định của pháp luật, anh (chị) sẽ bị cảnh cáo do không thực hiện đăng ký đúng thời hạn.

Khuyến nghị:
  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật Hôn nhân và Gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.