Thời điểm mở thừa kế là sau khi người để lại di sản mất. Khi có sự tranh chấp về di sản thừa kế, có thể yêu cầu Tòa Án giải quyết, thời hiệu yêu cầu Tòa Án giải quyết là 1 năm kể từ thời điểm mở thừa kế.
Hỏi: Vợ chồng tôi có 03 mảnh đất và nhà ở được đứng tên hai vợ chồng tôi. Chúng tôi chỉ có một người con. Nay vợ tôi mất đi do bệnh hiểm nghèo mà không để lại di chúc. Tôi muốn mở (tài sản thừa kế) thay tên trong quyền sở hữu tài sản đất và nhà ở... Khi tới Văn phòng công chứng thì được họ nói là nay mẹ vợ tôi còn sống, nên cần phải có chữ ký của bà ấy. Nhưngsau khi vợ tôi mất,giữa bố con tôi và gia đình bên ngoại có mâu thuẫn, nên không thể xin được chữ kí của mẹ vợ tôi.
Tất cả tài sản chúng tôi có đều là mồ hôi công sức của vợ chồng tôi làm lên và đứng ra mua, không phải là của ai cho hay tặng.Vậy đề nghị Luật sư tư vấn, nếu tôi đưa vụ việc qua Tòa án dân sự thì có giải quyết được không và phần tài sản của vợ tôi đó thì ai được thừa hưởng? (Phạm Văn Quyền - Hải Dương)
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật gia Nguyễn Văn Nam - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Theo Bộ luật Dân sự năm 2005, thời điểm mở thừa kế là sau khi người để lại di sản mất. Khi có sự tranh chấp về di sản thừa kế, anh có thể yêu cầu Tòa Án giải quyết, thời hiệu yêu cầu Tòa Án giải quyết là 1 năm kể từ thời điểm mở thừa kế. Do đó, anh có thể yêu cầu Tòa án giải quyết chia di sản. Trong trường hợp này, việc chia di sản sẽ được thực hiện theo pháp luật vì người chết không để lại di chúc.
Ba mảnh đất và nhà ở là tài sản chung của vợ chồng, nên về nguyên tắc, sẽ được chia đôi phần giá trị tài sản. Phần nửa khối tài sản chung này là của vợ anh, nên sẽ được chia thừa kế trên phần tài sản đó.
Những người được hưởng thừa kế từ phần tài sản của vợ anh trong khối tài sản chung được xác định theo Điều 676 Bộ luật Dân sự năm 2005: "1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây: a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết; b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại; c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại. 2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau. 3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản".
Anh không nói rõ vợ chồng anh có bao nhiêu người con, nên theo quy định trên anh có thể đối chiếu với những người có quan hệ như trên với vợ anh để xác định số người được hưởng thừa kế. Mỗi người sẽ được hưởng phần di sản bằng nhau.
Nếu anh và những người thừa kế khác có thể thỏa thuận với nhau về việc hưởng di sản và phân chia di sản, hoặc anh muốn đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì anh cần thanh toán cho người thừa kế còn lại phần giá trị tương ứng với giá trị phần di sản mà họ được hưởng. Sự thỏa thuận này cần được công chứng để đảm bảo giá trị pháp lý và tránh được những tranh chấp về sau.
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận