-->

Vợ đang mang thai có quyền ly hôn không?

Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.

Hỏi: Nhờ Luật sư tư vấn, em năm nay 28 tuổi, vợ chồng em kết hôn từ năm 2012 và hiện có 01 bé gái năm nay 03 tuổi và em đang mang thai con thứ 02 được 06 tháng. Nay em muốn làm thủ tục ly hôn. Bởi vì vợ chồng em sống không hòa thuận, hay chửi cãi nhau. Chồng em là người ham chơi, cờ bạc rượu chè. Khi được vợ khuyên can thì luôn xúc phạm tới vợ không những thế còn lôi bố mẹ đẻ và họ hàng nhà em ra mà khinh miệt. Em có thể ly hôn và nhận quyền nuôi cả hai con không? (Minh Anh - Nam Định)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Trần Bảo Ngọc - Tổ tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Theo quy định tại khoản 1 điều 51 Luật hôn nhân và gia đình quy định:

“1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn

2. Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.

3. Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi”.

Trường hợp này bạn đang mang thai nên chồng của bạn không được quyền ly hôn, nhưng pháp luật không hạn chế quyền ly hôn đối với người vợ. Do đó nếu hôn nhân không đạt được thì bạn có thể làm đơn yêu cầu ly hôn phù hợp với quy định của pháp luật.

Khuyến nghị:

  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.