-->

Vợ chồng ly hôn và vấn đề chia tài sản khi ly hôn

Điều 59 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định về nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn

Hỏi: Tôi xin hỏi. người chồng và người vợ không sống chung thời gian dài. Người chồng tự ý bỏ đi, người vợ ở lại những phần đất đai là của ông bà bên chồng để lại. Người vợ một mình nuôi con ăn học và làm nên sự nghiệp trên mảnh đất đó. Đề nghị Luật sư tư vấn, nếu sau này hai người li dị. phần tài sản sẽ được chia như thế nào? (Trần Hưng - Hà Nam)

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Thanh Thu - Tổ tư vấn pháp luật hôn nhân gia đình Công ty Luật TNHH Everest trả lời:

Thứ nhất, xác định tài sản chung của vợ chồng:

Căn cứ vào Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định về tài sản chung của vợ chồng:

“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung".

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.

3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung”.

Do vậy nếu mảnh đất trên mà người chồng chứng minh được là tài sản được thừa kế riêng (tức là được thừa kế trước hoặc sau thời kì hôn nhân) thì mảnh đất là tài sản riêng của người chồng. Còn nếu mảnh đất là tài sản thuộc trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 34 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014: “Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác” thì mảnh đất là tài sản chung của vợ chồng.

Dựa vào Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 thì thu nhập cũng như những tài sản mà bạn tự mình làm ra, gây dựng sự nghiệp, nuôi con ăn học thì những tài sản này vẫn thuộc tài sản chung của vợ chồng.

Thứ hai, vấn đề chia tài sản khi ly hôn:

Căn cứ vào Điều 59 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định về nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn:

"1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này.

Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết.

2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây: a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng; b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập; c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập; d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.

3. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.

4. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.

Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.

5. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

6. Tòa án nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn Điều này”.

Do vậy mà khi ly hôn Tòa án sẽ phải căn cứ vào sự đóng góp của vợ, chồng vào khối tài sản chung để chia tài sản.

Vì vậy trong trường hợp trên, người vợ sẽ chắc chắn nhận được số tài sản tương ứng với tỷ lệ đóng góp vào tài sản chung (thông qua việc nuôi con ăn học, lập nghiệp, thu nhập…). Nếu mảnh đất trên là tài sản chung thì sẽ được chia theo Điều 59 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 cụ thể mảnh đất sẽ được chia đôi nếu vợ chồng không có thỏa thuận khác. Còn nếu mảnh đất trên là tài sản riêng của người chồng (người chồng chứng minh được là tài sản riêng của mình) thì vẫn sẽ thuộc sở hữu của người chồng (theo Khoản 1 Điều 62 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014) sau khi ly hôn; người chồng sẽ phải thanh toán cho người vợ những chi phí hợp lý mà người vợ đã đóng góp phát sinh trên mảnh đất (dựa vào Khoản 4 Điều 59 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014).

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật Hôn nhân và Gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.