Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi khi ly hôn, tuy nhiên có dự trên căn cứ là công sức của mỗi bên trong quá trình tạo dựng tài sản.
Hỏi: Tôi tên là Sinh ở Lào Cai. Tôi có việc muốn xin tư vấn của quý công ty. Tháng 11 năm 2010 tôi có kết hôn với vợ tôi. Tôi có 2 con trai riêng và vợ có 1 con gái riêng. Tất cả sống chung trong ngôi nhà riêng của tôi. Các cháu đều đã lớn và đi học xa nhà. Trong thời gian sống với nhau chúng tôi có thỏa thuận miệng với nhau về việc để riêng phần kinh tế (không có giấy tờ,chỉ là thỏa thuận miệng). Con tôi tôi nuôi,con vợ tôi vợ tôi nuôi. Trong thời gian sống chung,tôi có mua sắm và sửa sang lại nhà cửa bằng tiền của mình,không có sự trợ giúp của vợ. Đến tháng 7 năm 2015 chúng tôi ly hôn. Vì riêng rẽ tài sản nên cả 2 không có sự tranh chấp về tài sản trước tòa khi ly hôn. Thủ tục ly hôn hoàn thành vào 28.7.2015 mà không có sự vướng mắc tranh chấp nào. Đến nay,tôi nhận đc giấy từ tòa án về việc vợ cũ đòi phân chia tài sản chung khi sống với tôi. Đó là phần tài sản tôi mua sắm và phần ngôi nhà tôi sửa khi đang ở với nhau. Vì không có giấy tờ chứng minh việc sửa sang và mua sắm bằng tiền của mình nên tôi rất lo lắng. ( Hà Phương - Hà Nội)
Luật gia Nguyễn Thanh Thu - Tổ tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình Công ty Luật TNHH Everest trả lời:
Căn cứ vào Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định tài sản chung của vợ chồng như sau:
"1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung".
Do vậy, tài sản hình thành trong hôn nhân được coi là tài sản chung của vợ chồng. Tuy vợ chồng anh, trong thời gian sống với nhau đã có thỏa thuận với nhau về việc để riêng phần kinh tế nhưng việc thỏa thuận này hoàn toàn không có giấy tờ mà chỉ là thỏa thuận bằng lời nói nên việc thỏa thuận này không có giá trị pháp lý.
Vì vậy, vợ của anh hoàn toàn có thể yêu cầu Tòa án chia tài sản hình thành trong thời kì hôn nhân của vợ chồng anh. Chỉ khi anh đưa ra được các giấy tờ chứng minh việc mua sắm và sửa sang nhà cửa đều là tiền của anh mà không có sự đóng góp của vợ anh thì tài sản đó mới được coi là tài sản riêng của anh.
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật hôn nhân gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận