Trường hợp trong khu vực thu hồi đất có cả đối tượng quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thu hồi đất hoặc ủy quyền cho Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thu hồi đất.
Hỏi: Năm 2008, xã chúng tôi đã thực hiện nghị quyết 07 đồn điền đổi thửa mỗi hộ được 2 mảnh ruộng gồm: 1 mảnh loại đất 1 và 1 mảnh loại 3. Xã chúng tôi có con mương 10 xã là nơi con đường liên thông các xã đi qua.Thôn 3 chúng tôi có 2 thỏi ruộng nằm sát bờ mương này. Năm 2013, xã có nhu cầu mua ruộng của dân và được dân đồng ý bán với giá 50 triệu đồng/1 sào (chỉ mua 30m chiều dài từ bờ mương xuống) và bán ra với giá hơn 1 tỷ đồng/1 sào. Còn lại 1 thỏi rưỡi, đến năm nay xã lại thu trắng (30m chiều dài từ bờ mương xuống) và bắt dân chia ruộng lại nhưng chỉ chia có 6 thỏi bên trong kề bên 2 thỏi bờ mương và rút ra mỗi sào 1,1 thước để bù cho những hộ xã thu ở bờ mương. Dân chúng tôi không đồng ý và đã viết đơn lên xã 2 lần, đến lần 2 thì xã cho thôn mở hội nghị họp thôn, trong phiên họp có cả cán bộ xã về dự. Trong cuộc họp dân chúng tôi đưa ý kiến không đồng ý cho xã thu ruộng vì mỗi người dân chúng tôi có 8 thước ruộng cơ bản để canh tác làm ăn sinh sống, nhưng cán bộ xã vẫn cương quyết thu và nói đây là nghị quyết của nhà nước.Vậy xã tôi thu đất như thế có vi phạm luật đất đai không? (Thị Linh - Hà Nam)
>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật gia Nguyễn Đại Hải - Tổ tư vấn pháp luật bất động sản của Công ty Luật TNHH Everest - Trả lời:
Căn cứ vào điều 66 luật đất đai 2013 về cơ quan có thẩm quyền thu hồi đất:
“Điều 66. Thẩm quyền thu hồi đất1. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thu hồi đất trong các trường hợp sau đây:a) Thu hồi đất đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều này;b) Thu hồi đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn.
2. Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thu hồi đất trong các trường hợp sau đây:a) Thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư;b) Thu hồi đất ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam.
3. Trường hợp trong khu vực thu hồi đất có cả đối tượng quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thu hồi đất hoặc ủy quyền cho Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thu hồi đất”.
Từ quy định trên thì chỉ có uỷ ban nhân dân cấp huyện và ủy ban nhân dân cấp tỉnh mới có thẩm quyền ra quyết định thu hồi đất của người sử dụng đất, còn ủy ban nhân xã không có thẩm quyền thu hồi đất, do đó khi ủy ban nhân dân xã ra quyết định thu hồi đất là sai thẩm quyền.
Việc tiến hành thu hồi đất cũng phải tuân thủ theo các quy định của pháp luật về các trường hợp thu hồi đất được quy định tại các điều 61, 62, 64, 65 của luật đất đai thì mới xem là có căn cứ hay thu hồi đúng theo quy định của pháp luật.
Trong trường hợp của bạn thì UBND xã đã có dấu hiệu vi phạm pháp luật đất đai thể hiện:
+) Căn cứ vào điều 66 luật đất đai UBND xã không có thẩm quyền thu hồi đất mà lại ra quyết định thu hồi đất.
+) Thực hiện sai về trình tự, thủ tục thu hồi đất, không tuân theo các quy định về trình tự thu hồi đất quy định tại điều 69 luật đất đai 2013 vàphải niên yết, công khai quyết định thu hồi đất tại nơi sinh hoạt của thôn xóm, nơi hộ gia đình có đất bị thuhồi, giao quyết định thu hồi đất đến từng hộ dân có đất bị thu hồi.
+) Không đưa ra được căn cứ theo luật định khi tiến hành thu hồi đất;
+) Khi thu hồi đất không thực hiện bồi thường, hổ trợ cho người có đất bị thu hồi theo quy định của pháp luật khi có đủ căn cứ để đượcbồi thường, hổ trợ khi nhà nước thu hồi đất theo quy định tại luật đất đai 2013. Như người có đất bị thu hồi có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay có đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, không thuộc các trường hợp quy định tại điều 64,65 luật đất đai.
Bạn cùng người dân có thể làm đơn khiếu nại gửi lên UBND xã để yêu cầu UBND xã yêu cầu UBND xã trả lại đất cho người dân vì UBND xã không có thẩm quyền thu hồi đất mà lại ra quyết định thu hồi đất, bên cạnh đấy hỏi UBND xem căn cứ vào đâu để thu hồi đất và phải đưa ra được các văn bản, dự án liên quan đến quy hoạch kế hoạch sử dụng đất và mục đích thu hồi đất là để xây dựng khu kinh tế hay làm đường... theo như các quy định của luật đất đai 2013 tại các điều 61,62,64,65 về căn cứ để tiến hành thu hồi đất.
Nếu như UBND xã không trả lời hoặc trả lời không thỏa đáng bạn có thể khiếu nại lên UBND cấp huyện để yêu cầu giải quyết hoặc khởi kiện ra tòa án hành chính để yêu cầu tòa án giải quyết vu việc trên. Theo như quy định tại điều 7 luật khiếu nại 2011.
"Điều 7. Trình tự khiếu nại
1. Khi có căn cứ cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính là trái pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì người khiếu nại khiếu nại lần đầu đến người đã ra quyết định hành chính hoặc cơ quan có người có hành vi hành chính hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.
Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết lần đầu hoặc quá thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khiếu nại lần hai đến Thủ trưởng cấp trên trực tiếp của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.
Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần hai hoặc hết thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính".
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật bất động sản mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận