Việc bố bạn tự ký tên nhưng chưa được mẹ bạn đồng ý thì về nguyên tắc việc tặng cho này của bố bạn là vô hiệu.
Hỏi: Nguyên trước đây ba mẹ tôi có 1 lô đất đứng tên 2 vợ chồng. Sau 1 thời gian, chú thím tôi không có nhà ở nên xin ba mẹ tôi xây nhà ở trên lô đất đó. Sau đó, ông bà nội có nói với ba mẹ tôi là 2 con cho lô đất đó cho chú thím, sau này ông bà nội mua lô đất khác trả lại cho 2 con. Lúc đầu ba mẹ tôi đồng ý, tuy nhiên trên mặt giấy tờ thì chưa ký tên cho tặng vì ông bà nội không giữ lời hứa trước đây. Gần đây, ba tôi vì thương chú thím nên đã ký tên cho lô đất đó nhưng mẹ tôi chưa đồng ý ký vào vì có lý do riêng của mẹ để lại cho con cái. Xin hỏi Luật sư, bây giờ gia đình tôi nên làm gì, trong khi giấy tờ chú thím đã giữ nhưng người đứng tên vẫn là ba mẹ tôi, làm cách nào để lấy lại giấy tờ đất, và nếu không lấy lại giấy tờ đất thì trên pháp lý chúng tôi sẽ phải làm như thế nào cho phải?(Nguyễn Hải Phong - Nam Định)
Theo như thông tin bạn đã cung cấp thì người đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là cả bố mẹ bạn do đó mà cả bố và mẹ bạn đều là chủ sử dụng hợp pháp của lô đất đó theo điều 98, luật đất đai 2013 như sau:
“Điều 98. Nguyên tắc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất:
…4. Trường hợp quyền sử dụng đất hoặc quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là tài sản chung của vợ và chồng thì phải ghi cả họ, tên vợ và họ, tên chồng vào Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, trừ trường hợp vợ và chồng có thỏa thuận ghi tên một người.
Trường hợp quyền sử dụng đất hoặc quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là tài sản chung của vợ và chồng mà Giấy chứng nhận đã cấp chỉ ghi họ, tên của vợ hoặc chồng thì được cấp đổi sang Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất để ghi cả họ, tên vợ và họ, tên chồng nếu có yêu cầu.”
Theo bạn trình bày, lúc đầu cả bố mẹ bạn đều đồng ý cho tặng mảnh đất này cho chú thím nhưng lại chưa ký tên cho tặng thì mảnh đất đó vẫn là của bố mẹ bạn mà không phải là của chú thím bạn theo quy định tại điều 467, Bộ luật dân sự 2005 như sau:
2. Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký, nếu bất động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản."
Sau đó bố bạn lại ký tên tặng cho chú thím bạn mảnh đất này thì mảnh đất này cũng chưa thuộc quyền sử dụng của chú thím bạn. Bởi lẽ khi cơ quan có thẩm quyền đã ghi tên của cả hai vợ chồng trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì bố mẹ bạn được pháp luật thừa nhận là chủ sở hữu chung của mảnh đất này. Nên khi bố bạn muốn cho chú thím bạn lô đất đất đó thì phải có sự đồng ý của mẹ bạn. Việc bố bạn tự ký tên nhưng chưa được mẹ bạn đồng ý thì về nguyên tắc việc tặng cho này của bố bạn là vô hiệu, mặt khác người đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đát vẫn là bố mẹ bạn thì cuối cùng mảnh đất đó vẫn thuộc quyền sử dụng của bố mẹ bạn.
Vậy trong trường hợp này để lấy lại được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì bố mẹ bạn đề nghị chú thím bạn trả lại giấy tờ, nếu họ không trả thì bạn có thể gửi đơn đến UBND xã (phường) để giải quyết. Nếu họ vẫn không trả lại thì bó mẹ ban jcos thể khởi kiện ra Tòa án để đòi lại giấy tờ củagia đình bạn.
Trường hợp câu hỏi thứ hai của bạn chúng tôi xin trả lời như sau:
Do bố mẹ bạn vẫn là chủ sở hữu chung hợp pháp đối với mảnh đất đó nên sau này khi bố mẹ bạn qua đời thì việc chia thừa kế sẽ dựa theo di chúc củabố mẹ bạn để lại (nếu có). Trường hợp không có di chúc thì sẽ chia theo pháp luật về thừa kế.
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật bất động sản mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận