Khi có yêu cầu về chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản. Phần tài sản của vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế
Hỏi: Ông A và bà B kết hôn ở Huế năm 1980 có ba con chung là X (sinh 1981), Y (sinh1983), Z (sinh 1996). Năm 2000 do mâu thuẫn gia đình A bỏ vào tp HCM sống và về sống chung như vợ chồng với bà C, có con chung với bà C là T (sinh 2002). Tài sản chung của A và B là 1.2 tỷ, tài sản chung của A và Clà 400 triệu. X kết hôn 2002, có 1 con là X1 (sinh 2002). Năm 2002 X chết, năm 2003 A chết,anh chị hãy chia tài sản của A trong các trường hợp sau:
1. A chết không để lại di chúc
2. A chết để lại di chúc là toàn bộ tài sản chia đều cho C và T. (Cao Thành - Hà Nam)
Luật gia Nguyễn Thành Đạt - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
1. A chết không để lại di chúc.
Thứ nhất xác định di sản thừa kế do A để lại.
Khoản 2Điều 66 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định vềgiải quyết tài sản của vợ chồng trong trường hợp một bên chết hoặc bị Tòa Án tuyên bố là đã chết như sau
"2. Khi có yêu cầu về chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản. Phần tài sản của vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế".
Theo đó tài sản chung của A và B sẽ được chia đôi, tài sản thuộc di sản thừa kế của A là 600 triệu đồng.
Về tài sản chung giữa A và C vì A và C chỉ sống chung như vợ chồng nên về mặt pháp lý họ sẽ không được công nhận là vợ chồng nên về nguyên tắc phần tài sản chung đó sẽ được phân chia theo tỉ lệ đóng góp của từng người,ở đây không đề cập đến tỉ lệ đòng góp của A và C nên sẽ được chia đôi, như vậy di sản thừa kế của A là 200 triệu.
Vậy tổng số di sản thừa kế của A để lại là 800tr đồng.
Thứ hai xác định người hưởng thừa kế.
A không để lại di chúc nên di sản thừa kế sẽ được chia cho những người thừa kế theo pháp luật theo quy định tại Điều 676 Bộ luật dân sự như sau:
"1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản".
Theo đó di sản của A sẽ được chia cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất bao gồm B, X, Y,Z, T. Tuy nhiên vì X chết trước A nên áp dụng điều 677 về thừa kế thế vị như sau:
"Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống".
Như vậy X1 sẽ là người được hưởng phần di sản thừa kế mà X được hưởng. Theo đó di sản thừa kế của A sẽ được chia đều cho B, X1,Y, Z, T mỗi người 160 triệu.
2. A chết để lại di chúc là toàn bộ tài sản chia đều cho C và T
Điều 669 Bộ luật dân sự 2005 quy định những người thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc bao gồm:
"Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 642 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 643 của Bộ luật này:
1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động".
Do đó mặc dù A để lại di chúc chỉ cho C và T nhưng theo quy định trên thì B, Z( 7 tuổi) mỗi người vẫn được hưởng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật là: 2/3 của 160tr.
Vậy di sản còn lại của A là 800.000.000 đồng trừ đi phần mà B và Z được nhận, sẽ được chia đều cho C và T.
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật hình sự mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận