Khi hợp đồng lao động chấm dứt theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 5, 6, 7, 9 và 10 Điều 36 của Bộ luật này thì người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên,...
Hỏi: Tôi làm nhân viên lái xe tại Công ty TNHH MTV ở TP HCM, ngaỳ 03/11/2016 tôi làm đơn xin nghĩ việc, ngày 20/11/2016 công ty ra quyết định chấm dứt hợp đồng. Thời gian công tác của tôi từ 7/2006 đến nay là 8 năm 5 tháng, nhưng cty tính trợ cấp thôi việc là 3 năm. Cách tính : 3,6 x 1.050.000 x 3 : 2 = 5.670.000. Xin luật sư cho biết công ty tôi tính trợ cấp thôi việc vậy có đúng không? (Phí Long - Hồ Chí Minh)
Luật gia Phạm Thị Mai Phương - Tổ tư vấn pháp luật lao động Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Điều 48 Bộ Luật lao động 2012 quy định về trợ cấp thôi việc như sau:
"1. Khi hợp đồng lao động chấm dứt theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 5, 6, 7, 9 và 10 Điều 36 của Bộ luật này thì người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương.2. Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc là tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động trừ đi thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc.3. Tiền lương để tính trợ cấp thôi việc là tiền lương bình quân theo hợp đồng lao động của 06 tháng liền kề trước khi người lao động thôi việc".
Theo quy định này, thời gian để tính trợ cấp thôi việc là tổng thời gian người lao động thực tế cho người sử dụng lao động, trừ đi thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc. Trong trường hợp của bạn, nếu như bạn không tham gia đóng bảo hiểm thất nghiệp và trước đó chưa được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc thì thời gian để tính trợ cấp thôi việc của bạn trong trường hợp này là 8 năm 5 tháng chứ không phải 3 năm.
Hơn nữa, tiền lương để tính trợ cấp thôi việc là tiền lương bình quân theo hợp đồng lao động của 06 tháng liền kề trước khi người lao động thôi việc chứ không phải là mức tiền lương tối thiểu là 1.050.000. Ví dụ: tiền lương bình quân 06 tháng trước khi thôi việc của bạn là 3.000.000 đồng thì mỗi năm làm việc bạn được hưởng trợ cấp một nửa tháng tiền lương, tức là tiền trợ cấp mỗi năm làm việc của bạn là 1.500.000 đồng.
Đối với trường hợp của bạn, vì bạn chưa cung cấp mức tiền lương bình quân 06 tháng trước khi bạn thôi việc, nên chúng tôi không thể giúp bạn tính cụ thể mức hưởng trợ cấp thôi việc được. Tuy nhiên, bạn có thể căn cứ vào quy định và ví dụ trên để tính ra mức hưởng trợ cấp thôi việc mà bạn được hưởng. Sau đó, đề nghị với bên công ty giải quyết lại cho bạn nếu như có sai sót.
Trong trường hợp có sai sót mà bạn đã đề nghị công ty xem xét lại để giải quyết cho bạn mà công ty vẫn không chịu giải quyết thì bạn có kể khởi kiện ra tòa án mà không cần qua thủ tục hòa giải theo quy định tại Điều 200, 201 và Điều 202 Bộ luật lao động 2012.
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận