-->

Tư vấn pháp luật: Bán hàng đa cấp phải chịu những loại thuế nào?

Khấu trừ tiền thuế thu nhập cá nhân của người tham gia bán hàng đa cấp để nộp vào ngân sách nhà nước trước khi chi trả hoa hồng, tiền thưởng hoặc lợi ích kinh tế khác cho người tham gia bán hàng đa cấp...

Hỏi: Người tham gia bán hàng đa cấp ngoài thuế TNCN thì có còn phải đóng loại thuế nào nữa không? Nếu có thì được quy định như thế nào? Hiện nay một số công ty bán hàng đa cấp còn thu một loại thuế là "thuế thu nhập bất thường", tuy nhiên em chưa tìm thấy loại thuế này áp cho người tham gia kinh doanh bán hàng đa cấp. Vậy xin hỏi quý cơ quan, người bán hàng đa cấp có phải chịu loại thuế này hay không? Nếu có thì được quy định như thế nào? (Vũ Trần Hà - Hà Nội)

>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Thị Hoài Thương - Tổ tư vấn pháp luật kế toán - thuế của Công ty Luật TNHH Everest - Trả lời:

Theo quy định tại khoản 7 Điều 22 Nghị định số 42/2014/NĐ-CP về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp thì một trong những nghĩa vụ của doanh nghệp bán hàng đa cấp là:

"7. Khấu trừ tiền thuế thu nhập cá nhân của người tham gia bán hàng đa cấp để nộp vào ngân sách nhà nước trước khi chi trả hoa hồng, tiền thưởng hoặc lợi ích kinh tế khác cho người tham gia bán hàng đa cấp."

Cụ thể cho quy định này, tại điểm d Điều 31 Nghị định số 12/2015/NĐ-CP thì: "Công ty xổ số, doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp bán hàng đa cấp trả thu nhập cho cá nhân làm đại lý xổ số, đại lý bảo hiểm, đại lý bán hàng đa cấp với số tiền hoa hồng trên 100 triệu đồng/năm có trách nhiệm khấu trừ thuế thu nhập cá nhân trước khi trả thu nhập cho cá nhân." Như vậy, theo quy định này, đối với đại lý bán hàng đa cấp mà có số tiền hoa hồng trên 100 triệu đồng/ năm thì được coi là thu nhập được khấu trừ thuế thu nhập cá nhấn. Và mức thuế suất đối với hoạt động bán hàng đa cấp (được xác định là thu nhập từ hoạt động kinh doanh) là 5% (Theo quy định tại khoản 4 Điều 6 Nghị định số 12/2015/NĐ-CP. Như vậy, đối với người tham gia bán hàng đa cấp, nếu như có thu nhập từ 100 triệu đồng/ năm trở lên thì sẽ phải nộp thuế thu nhập cá nhân theo quy định của pháp luật.

Ngoài ra, theo quy định tại Điều 1 Thông tư số 92/2015/NĐ-CP thì:

"Điều 1. Người nộp thuế.1. Người nộp thuế theo hướng dẫn tại Chương I Thông tư này là cá nhân cư trú bao gồm cá nhân, nhóm cá nhân và hộ gia đình có hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc tất cả các lĩnh vực, ngành nghề sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật (sau đây gọi là cá nhân kinh doanh). Lĩnh vực, ngành nghề sản xuất, kinh doanh bao gồm cả một số trường hợp sau:a) Hành nghề độc lập trong những lĩnh vực, ngành nghề được cấp giấy phép hoặc chứng chỉ hành nghề theo quy định của pháp luật. b) Làm đại lý bán đúng giá đối với đại lý xổ số, đại lý bảo hiểm, bán hàng đa cấp của cá nhân trực tiếp ký hợp đồng với công ty xổ số kiến thiết, doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp bán hàng đa cấp."

Theo đó tại điểm a khoản 2 Điều 2 Thông tư số 92/2015/TT-BTC xác định thì tỷ lệ thuế giá trị gia tăng lúc này là 1%. Như vậy, trong trường hợp của bạn, nếu tham gia bán hàng đa cấp mà có thu nhập từ 100 triệu đồng/năm trở lên thì bạn phải nộp thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập cá nhân theo quy định của pháp luật. Hơn nữa, trong hệ thống Luật thuế Việt Nam, không có bất kỳ quy định nào về loại thuế "thu nhập bất thường" như bạn mô tả khi tham gia bán hàng đa cấp. Mà như chúng tôi đã tư vấn ở trên, khi có thu nhập từ 100 triệu đồng/năm trở lên thì bạn sẽ phải nộp thuế thu nhập cá nhân và thuế giá trị gia tăng.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật kế toán - thuế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.