Tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân

Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.

Để thực hiện mục tiêu hoàn thiện nâng cao hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy quyền làm chủ của nhân dân thì vấn đề tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước được coi là một trong những nhân tố thúc đẩy nhanh hơn quá trình dân chủ hóa và đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong hệ thống chính trị nước ta thì Hội đồng nhân dân các cấp có vị trí rất quan trọng. Hội đồng nhân dân - cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, cơ đại biểu của nhân dân địa phương trong suốt quá trình hoạt động của mình đã từng bước hoàn thiện và trưởng thành góp phần quan trọng trong tổ chức bộ máy Nhà nước cũng như đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân. Bởi vậy việc nắm vững tổ chức và hoạt động của hội đồng nhân dân là một việc làm cần thiết.
Luật sư tư vấn pháp luật - Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật - Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198

Thứ nhất, cơ cấu tổ chức của Hội đồng nhân dân

Thường trực Hội đồng nhân dân

Thường trực Hội đồng nhân dân là cơ quan mới được thành lập ra từ sau khi có Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân 6-1989. Lúc đầu Thường trực Hội đồng nhân dân mới chỉ thành lập ở cấp tỉnh và huyện gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Thư ký; ở cấp xã không thành lập Thường trực mà chỉ có Ban Thư ký. Theo qui định của Luật này Thường trực Hội đồng nhân dân là cơ quan đảm bảo việc tổ chức các hoạt động của Hội đồng nhân dân. Trước đó, Uỷ ban nhân dân với tính cách là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan Nhà nước ở địa phương thì đồng thời cũng là cơ quan thường vụ thường trực của Hội đồng nhân dân. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân là Chủ tịch Uỷ ban thường vụ của Hội đồng nhân dân. Uỷ ban nhân dân thực hiện tất cả các chức năng gọi là thường vụ, thường trực như: tổ chức việc chuẩn bị và triệu tập các kỳ họp Hội đồng nhân dân, điều hoà, phối hợp hoạt động của các Ban của Hội đồng nhân dân, phối hợp với các Ban xây dựng các đề án trình Hội đồng nhân dân xét và quyết định; giữa hai kỳ họp Hội đồng nhân dân được xét và giải quyết các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân trừ những vấn đề chỉ do kỳ họp giải quyết. Lý do của những thay đổi này là do Uỷ ban nhân dân bận bịu quá nhiều vào hoạt động hành chính Nhà nước mà không có điều kiện tổ chức, điều hoà hoạt động của Hội đồng nhân dân, thực hiện các chức năng thường vụ, thường trực được phân giao. Mặt khác, bản thân Uỷ ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân đương nhiên không hào hứng gì trong việc tăng cường hoạt động của Hội đồng nhân dân. Vậy cần phải thành lập ra Thường trực Hội đồng nhân dân để đảm nhiệm chức năng thường vụ, thường trực vốn không thích hợp đối với cơ quan chấp hành - hành chính Nhà nước.

Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm1994 có một số thay đổi về tổ chức Thường trực Hội đồng nhân dân. Lúc này Thường trực chỉ còn gồm có Chủ tịch và Phó chủ tịch mà không còn chức danh Thư ký và không còn coi là một cơ quan của Hội đồng nhân dân nữa với hàm ý gắn Thường trực với Hội đồng nhân dân chứ không tách thành một cơ quan riêng. Ở cấp xã bỏ Ban thư ký mà thành lập Chủ tịch Hội đồng nhân dân (có Phó Chủ tịch). Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003 quy định tổ chức Thường trực Hội đồng nhân dân ở tất cả các cấp nhưng ở tỉnh và huyện có thêm Uỷ viên thường trực, còn ở cấp xã vẫn chỉ có Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân.

Thường trực Hội đồng nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra. Tại kỳ họp đầu tiên của mỗi khoá Hội đồng nhân dân, Thường trực được chọn bầu ra trong số đại biểu, theo thể thức: bầu Chủ tịch Hội đồng nhân dân theo sự giới thiệu của chủ toạ kỳ họp (Chủ toạ kỳ họp này là Chủ tịch Hội đồng nhân dân khoá trước, nếu khuyết thì do Phó Chủ tịch và nếu khuyết cả hai thì là triệu tập viên do Thường trực Hội đồng nhân dân cấp trên trực tiếp chỉ định), bầu Phó Chủ tịch và Uỷ viên thường trực theo sự giới thiệu của Chủ tịch. Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền giới thiệu và ứng cử vào các chức vụ đó. Thành viên của Thường trực không thể đồng thời là thành viên của Uỷ ban nhân dân cùng cấp. Kết quả bầu này phải được Thường trực Hội đồng nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn; đối với cấp tỉnh phải được Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn. Trong khi chờ phê chuẩn, những người được bầu giữ các chức vụ trên được thực hiện ngay nhiệm vụ, quyền hạn của mình ngay sau khi bầu.

Nhiệm kỳ của Thường trực Hội đồng nhân dân (cũng như của Uỷ ban nhân dân, các ban của Hội đồng nhân dân) và các chức vụ trong đó theo nhiệm kỳ của hội đồng nhân dân hiện là 5 năm. Lần đầu tiên, tại Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003, pháp luật quy định Chủ tịch Hội đồng nhân dân (và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân) ở mỗi đơn vị hành chính không giữ quá hai nhiệm kỳ liên tục (Điều 6). Quy định này, cũng giống như quy định nhiệm kỳ của cơ quan đại diện nói chung, là nhằm mục đích để giám sát đối với các đại diện được bầu ra và tạo cơ hội để các nhân tố mới tham gia vào hoạt động của cơ quan quyền lực Nhà nước.


Thường trực Hội đồng nhân dân có những nhiệm vụ sau đây:


1. Triệu tập và chủ toạ các kỳ họp của Hội đồng nhân dân; phối hợp với Uỷ ban nhân dân trong việc chuẩn bị kỳ họp Hội đồng nhân dân;

2. Đôn đốc, kiểm tra Uỷ ban nhân dân cùng cấp và các cơ quan Nhà nước khác ở địa phương thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân;

3. Giám sát việc thi hành pháp luật tại địa phương;

4. Điều hoà, phối hợp hoạt động của các Ban của Hội đồng nhân dân; xem xét kết quả giám sát của các Ban khi cần thiết và báo cáo Hội đồng nhân dân tại kỳ họp gần nhất; giữ mối liên hệ với các đại biểu Hội đồng nhân dân; tổng hợp các chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân đến Hội đồng nhân dân;

5. Tiếp dân, đôn đốc, kiểm tra và xem xét tình hình giải quyết các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân; tổng hợp ý kiến, nguyện vọng của nhân dân để báo cáo tại kỳ họp Hội đồng nhân dân;

6. Phê chuẩn kết quả bầu Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Uỷ viên thường trực Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp;

7. Trình Hội đồng nhân dân bỏ phiếu tín nhiệm đối vói người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân bầu theo đề nghị của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp hoặc của ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân;

8. Phối hợp với Uỷ ban nhân dân quyết định việc đưa ra Hội đồng nhân dân hoặc đưa ra cử tri bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân theo đề nghị của Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp;

9. Báo cáo về hoạt động của Hội đồng nhân dân cùng cấp lên Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp (đối với cấp tỉnh là lên Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ);

10. Giữ mối liên hệ và phối hợp công tác với Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp; thông báo cho Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp về hoạt động của Hội đồng nhân dân.

Thường trực Hội đồng nhân dân làm việc theo nguyên tắc tập thể. Mỗi tháng Thường trực Hội đồng nhân dân họp ít nhất một lần để kiểm điểm việc thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân và các quyết định của mình, đề ra nhiệm vụ công tác tháng sau. Thường trực Hội đồng nhân dân có thể họp bất thường theo đề nghị của từng thành viên Thường trực Hội đồng nhân dân.

Các Ban của Hội đồng nhân dân


Các Ban của Hội đồng nhân dân là cơ quan được lập ra để giúp Hội đồng nhân dân hoạt động. Ban của Hội đồng nhân dân được thành lập ở cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, huyện, quận, thành phố trực thuộc tỉnh và thị xã. Ở cấp xã, phường, thị trấn không có các Ban.

Theo qui định của pháp luật hiện hành thì Hội đồng nhân dân cấp tỉnh được thành lập ba Ban: (i)Ban kinh tế và ngân sách; (ii)Ban văn hoá - xã hội; (iii)Ban pháp chế.

Ở những tỉnh có nhiều dân tộc có thể thành lập Ban dân tộc để giúp Hội đồng nhân dân thực hiện và giám sát việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước.

Ở cấp huyện thành lập hai Ban: (i)Ban kinh tế - xã hội; (ii)Ban pháp chế.

Các Ban của Hội đồng nhân dân được thành lập tại kỳ họp thứ nhất của mỗi khoá Hội đồng nhân dân. Số lượng thành viên của mỗi Ban do Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định và bầu chọn trong số đại biểu có năng lực kiến thức chuyên môn, phù hợp với nhiệm vụ của Ban, có điều kiện thực tế tham gia các hoạt động của Ban.

Thành viên của các Ban không thể đồng thời là thành viên Uỷ ban nhân dân cùng cấp.Trưởng ban và các thành viên của Ban do Hội đồng nhân dân bầu bằng cách bỏ phiếu kín theo danh sách từng ban do Chủ tịch Hội đồng nhân dân giới thiệu. Các đại biểu cũng có quyền giới thiệu và ứng cử vào các chức vụ trên. Phó ban do Ban bầu ra.

Nhiệm vụ, quyền hạn của các Ban gồm:

1. Tham gia chuẩn bị các kỳ họp của Hội đồng nhân dân;

2. Thẩm tra các báo cáo, đề án do Hội đồng nhân dân hoặc Thường trực Hội đồng nhân dân phân công;

3. Giúp Hội đồng nhân dân giám sát hoạt động của Uỷ ban nhân dân và các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân, hoạt động của Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp;

4. Giúp Hội đồng nhân dân giám sát cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân trong việc thi hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên và các nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp;

Trước đây cấp xã cũng có các ban (3 ban là ban kinh tế, xã hội và đời sống, ban pháp chế và ban thư ký). Từ luật năm 1989 chỉ còn có ban thư ký, song đó là một hình thức cơ quan Thường trực Hội đồng nhân dân cấp xã. Với việc tổ chức ra Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã và nay là Thường trực Hội đồng nhân dân xã thì không còn ban này nữa.

Trong khi thi hành nhiệm vụ, các Ban có quyền yêu cầu Uỷ ban nhân dân, các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội ở địa phương cung cấp những thông tin, tài liệu cần thiết liên quan đến hoạt động giám sát. Các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm đáp ứng các yêu cầu của các Ban.

5. Báo cáo kết quả hoạt động giám sát với Thường trực Hội đồng nhân dân khi cần thiết.Quy chế tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân đã cụ thể hoá những nhiệm vụ, quyền hạn của từng ban.

Hình thức hoạt động của Ban là phiên họp do Trưởng ban triệu tập. Tại phiên họp các thành viên thảo luận trước các dự án trình Hội đồng nhân dân thông qua, hoặc chuẩn bị các đề án trình Hội đồng nhân dân, kiểm điểm việc thực hiện chương trình, bàn công tác của thời gian tới.

Ban còn tổ chức các cuộc kiểm tra, giám sát ở cơ sở, phát hiện những vấn đề để kiến nghị với cơ sở hoặc trình Hội đồng nhân dân quyết định. Các kiến nghị của ban có giá trị bắt buộc các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và các cơ quan hữu quan xem xét và thực hiện. Kết quả phải báo cáo lại cho ban biết.

Thường trực Hội đồng nhân dân điều hoà, phối hợp hoạt động của các Ban. Các Trưởng ban được dự các kỳ họp hàng tháng của Thường trực Hội đồng nhân dân cùng cấp.

Thạc sĩ, Luật sư Phạm Ngọc Minh - Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198
Thạc sĩ, Luật sư Phạm Ngọc Minh - Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198

Thứ hai, hình thức hoạt động của Hội đồng nhân dân.

Kỳ họp Hội đồng nhân dân

Kỳ họp là hình thức hoạt động chủ yếu của Hội đồng nhân dân. Đó là hội nghị định kỳ gồm các phiên họp của toàn thể (đa số) các đại biểu Hội đồng nhân dân để bàn bạc và quyết định những vấn đề của địa phương được nêu ra trong chương trình nghị sự. Thông qua kỳ họp, ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương được chuyển thành quyết định của cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, có ý nghĩa bắt buộc chung. Tại kỳ họp còn quyết định các biện pháp để thi hành quyết định, chỉ thị, pháp luật của Nhà nước ở địa phương, thực hiện quyền giám sát việc thực hiện nghị quyết và hoạt động của các cơ quan trực thuộc Hội đồng nhân dân và các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội khác ở địa phương.

Theo qui định của pháp luật, kỳ họp Hội đồng nhân dân các cấp họp thường lệ mỗi năm hai kỳ (trước đây qui định 3 tháng họp một kỳ. Ở miền núi nơi nào đi lại khó khăn thì Hội đồng nhân dân tỉnh, huyện họp 6 tháng một lần). Ngoài những kỳ họp thường lệ, Hội đồng nhân dân tổ chức các kỳ họp chuyên đề hoặc kỳ họp bất thường theo đề nghị của Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp hoặc ít nhất 1/3 tổng số đại biểu yêu cầu.

Kỳ họp Hội đồng nhân dân do Thường trực Hội đồng nhân dân cùng cấp triệu tập. Kỳ họp thứ nhất mỗi khoá Hội đồng nhân dân do Chủ tịch Hội đồng nhân dân cùng cấp khoá trước triệu tập và chủ toạ cho đến khi bầu được Chủ tịch Hội đồng nhân dân khoá mới. Trường hợp khuyết Chủ tịch thì Phó Chủ tịch triệu tập và chủ toạ. Nếu khuyết cả hai thì Thường trực Hội đồng nhân dân cấp trên trực tiếp (ở cấp tỉnh thì do Uỷ ban thường vụ Quốc hội) chỉ định triệu tập viên để triệu tập và chủ toạ.

Kỳ họp Hội đồng nhân dân được tiến hành (được coi là hợp lệ) khi có ít nhất 2/3 tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân tham dự.

Về nguyên tắc, tất cả nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân sẽ được Hội đồng nhân dân quyết định và quyết định tại kỳ họp. Kỳ họp có thể quyết định bất cứ vấn đề gì thuộc thẩm quyền của cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, không phải bất cứ vấn đề gì cũng đem ra kỳ họp giải quyết và không cần thiết phải như vậy. Hội đồng nhân dân có thể phân giao cho các cơ cấu của nó, như Thường trực, Uỷ ban nhân dân, các Ban giải quyết trong khuôn khổ của pháp luật.

Uỷ ban nhân dân phối hợp với Thường trực Hội đồng nhân dân và các Ban của Hội đồng nhân dân chuẩn bị nội dung các kỳ họp Hội đồng nhân dân, xây dựng đề án trình Hội đồng nhân dân xem xét, quyết định. Trước đây khi chưa thành lập Thường trực Hội đồng nhân dân thì tất cả các chức năng thường vụ, thường trực trong hoạt động của Hội đồng nhân dân đều do Uỷ ban nhân dân đảm nhiệm. Nay các nhiệm vụ, quyền hạn về thường vụ, thường trực được chuyển giao cho Thường trực Hội đồng nhân dân còn Uỷ ban nhân dân chỉ phối hợp với Thường trực cùng giải quyết. Tuy là phối hợp, nhưng trong nhiều trường hợp vai trò của Uỷ ban nhân dân là rất quan trọng, nhất là khi chuẩn bị các nội dung có liên quan đến kế hoạch, ngân sách...

Trước ngày họp 30 ngày, Thường trực Hội đồng nhân dân họp với Uỷ ban nhân dân, Trưởng phó Ban của Hội đồng nhân dân quyết định chương trình và các vấn đề sẽ bàn và giao cho các cơ quan chuẩn bị. Các báo cáo, đề án và các vấn đề sẽ bàn trong kỳ họp do Thường trực Hội đồng nhân dân cùng với Uỷ ban nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân (ở tỉnh, huyện), Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng với Thường trực Hội đồng nhân dân (ở xã, phường, thị trấn) chuẩn bị.

Hội đồng nhân dân họp công khai. Khi cần thiết, Hội đồng nhân dân quyết định họp kín theo đề nghị của chủ toạ cuộc họp hoặc của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp.

Ngày họp, nơi họp và dự kiến chương trình làm việc của kỳ họp phải được thông báo cho nhân dân biết, chậm nhất là 5 ngày, trước ngày khai mạc kỳ họp. Tài liệu cần thiết của kỳ họp Hội đồng nhân dân phải được gửi đến đại biểu Hội đồng nhân dân trước ngày khai mạc kỳ họp. Các đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân cấp trên được bầu ra ở địa phương, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, người đứng đầu các đoàn thể nhân dân ở địa phương (như Chủ tịch Liên đoàn lao động, Chủ tịch Hội nông dân, Bí thư Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội trưởng Hội liên hiệp phụ nữ, Chủ tịch Hội cựu chiến binh) và đại biểu cử tri được mời tham dự kỳ họp, được phát biểu ý kiến nhưng không biểu quyết. Các cơ quan thông tin báo chí ở địa phương được mời dự các phiên họp công khai.

Kỳ họp Hội đồng nhân dân có thể có nhiều nội dung làm việc khác nhau phụ thuộc vào tính chất của mỗi kỳ họp và yêu cầu công việc hiện tại. Trong kỳ họp đầu tiên của mỗi khoá Hội đồng nhân dân chủ yếu là công tác tổ chức, xây dựng bộ máy. Kỳ họp đầu năm Hội đồng nhân dân tập trung thảo luận và quyết định kế hoạch và dự toán ngân sách, quyết định chương trình hoạt động trong năm, quyết định các vấn đề thiết thực về kinh tế, văn hoá, an ninh, quốc phòng v.v... Trong các kỳ họp cuối năm, Hội đồng nhân dân nghe và thảo luận báo cáo kiểm điểm công tác của Thường trực, Uỷ ban nhân dân, Chánh án Toà án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, các ngành kinh tế - xã hội v.v... ở địa phương. Có thể có những kỳ họp dành tập trung thảo luận và quyết định về một chuyên đề cụ thể nào đó như về quản lý đất đai, bảo đảm trật tự trị an trên địa bàn. Trong kỳ họp cuối nhiệm kỳ, Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân kiểm điểm nhiệm kỳ hoạt động của mình.

Chủ toạ các kỳ họp Hội đồng nhân dân do Thường trực Hội đồng nhân dân cùng cấp đảm nhiệm. Kỳ họp thứ nhất của mỗi khoá Hội đồng nhân dân do Chủ tịch Hội đồng nhân dân khoá trước chủ toạ cho đến khi bầu được Chủ tịch Hội đồng nhân dân khoá mới. Nếu khuyết Chủ tịch thì do Phó Chủ tịch chủ toạ và nếu khuyết cả hai thì là triệu tập viên do Thường trực Hội đồng nhân dân cấp trên trực tiếp chỉ định làm chủ toạ như đã nêu ở trên.

Chủ toạ kỳ họp có nhiệm vụ điều khiển các phiên họp theo chương trình đã được Hội đồng nhân dân thông qua, tổ chức thảo luận, lấy biểu quyết về các vấn đề nêu ra, xem xét lại các nghị quyết và biên bản trước khi Chủ tịch Hội đồng nhân dân ký chứng thực.

Một nội dung quan trọng của các kỳ họp Hội đồng nhân dân là thực hiện quyền chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân đối với Uỷ ban nhân dân, các thành viên của Uỷ ban, Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân, Chánh án Toà án nhân dân và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp.

Chất vấn là hình thức quan trọng qua đó Hội đồng nhân dân giám sát hoạt động của các cơ quan thuộc Hội đồng nhân dân và các cơ quan, tổ chức khác trên phạm vi lãnh thổ. Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền chất vấn về bất cứ vấn đề gì thuộc thẩm quyền xem xét của Hội đồng nhân dân. Chất vấn không phải là câu hỏi thông thường mà là một đòi hỏi làm rõ về một hay nhiều sự việc "có vấn đề", tức là các biểu hiện của sự không chấp hành hoặc thi hành không đúng Nghị quyết của Hội đồng nhân dân và của cấp trên hướng dẫn, có biểu hiện vi phạm pháp luật mà đại biểu thấy có cơ sở vững chắc. Nếu chất vấn của đại biểu nêu ra, được Hội đồng nhân dân tán đồng (được chấp nhận) thì được coi như là một vấn đề của chương trình nghị sự.

Thủ trưởng các cơ quan hoặc cá nhân bị chất vấn phải nghiêm túc trả lời chất vấn ngay tại kỳ họp. Trường hợp cần điều tra, Hội đồng nhân dân quyết định cho trả lời tại kỳ họp sau. Nếu đại biểu chưa thoả mãn với nội dung trả lời có thể đề nghị Hội đồng nhân dân thảo luận. Khi cần thiết, Hội đồng nhân dân ra nghị quyết về việc trả lời và trách nhiệm của cơ quan hoặc người bị chất vấn.

Chất vấn cũng có thể được đại biểu nêu ra trong thời gian giữa hai kỳ họp. Đại biểu gửi chất vấn đến Thường trực Hội đồng nhân dân để chuyển đến cơ quan hoặc người bị chất vấn.

Kết quả của các kỳ họp là Hội đồng nhân dân thông qua các quyết định của mình dưới hình thức các nghị quyết. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân được thông qua khi có quá nửa tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân tán thành. Đối với việc bãi miễn đại biểu phải có 2/3 tổng số đại biểu tán thành. Riêng nghị quyết về việc bầu cử, miễn nhiệm và bãi nhiệm Uỷ ban nhân dân, nghị quyết giải tán Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp và một số nghị quyết khác còn phải được sự phê chuẩn của cấp trên (Chủ tịch Uỷ ban nhân dân hoặc Thường trực Hội đồng nhân dân - đối với cấp tỉnh là Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ) mới được thi hành.

Nội dung nghị quyết phải chỉ ra chủ trương, biện pháp, thời gian thực hiện và trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị thực hiện nghị quyết đó.

Nghị quyết Hội đồng nhân dân phải được gửi đến các cơ quan hữu quan để thực hiện, đồng thời được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng, chuyển lên chính quyền cấp trên để theo dõi và giám sát.

Ngoài ra, Hội đồng nhân dân còn ra nghị quyết để thông qua (ban hành) các văn bản pháp qui địa phương như các "Nội quy kỳ họp Hội đồng nhân dân", "Quy chế xây dựng làng văn hoá"...

Nghị quyết của Hội đồng nhân dân có hiệu lực ngay sau khi được thông qua hoặc sau khi được các cơ quan Nhà nước cấp trên phê chuẩn. Có một số nghị quyết ghi rõ thời gian thi hành. Nghị quyết hết hiệu lực khi đã thực hiện xong hoặc bị chính Hội đồng nhân dân sửa đổi, huỷ bỏ hoặc bị cấp trên đình chỉ bãi bỏ.

Hoạt động của các cơ cấu của Hội đồng nhân dân


Đó là hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân và của các Ban của Hội đồng nhân dân nói trên. Mỗi một cơ cấu này thực hiện một phần chức năng, nhiệm vụ được quy định chung cho cấp Hội đồng nhân dân đó. Hãy xem ở phần trên.

Hoạt động của đại biểu Hội đồng nhân dân


Xét về mặt cơ cấu tổ chức thì đại biểu Hội đồng nhân dân không phải là một cơ cấu riêng biệt của Hội đồng nhân dân vì Hội đồng nhân dân là một cơ quan hoạt động tập thể có hình thức hoạt động chủ yếu là kỳ họp mà ở đó tất cả các đại biểu đều tham dự và bàn định những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân. Ngoài ra có nhiều đại biểu còn tham gia vào Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân và các ban của Hội đồng nhân dân. Một số hoạt động của đại biểu (cùng với tổ đại biểu) tại đơn vị bầu cử cũng mang tính phụ trợ, là phương thức liên hệ với cử tri, thu thập ý kiến của họ rồi báo cáo hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Nhưng hoạt động của đại biểu trong chừng mực nhất định cũng có tính độc lập. Đó là một hình thức đảm bảo hiệu quả của hoạt động của Hội đồng nhân dân.

Theo quy định của pháp luật, hoạt động của đại biểu tập trung trên hai mặt:

Một là, hoạt động của đại biểu tại kỳ họp và trong các cơ cấu của Hội đồng nhân dân. Đại biểu Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ tham gia đầy đủ các kỳ họp, phiên họp của Hội đồng nhân dân, các sinh hoạt của tổ đại biểu, hoàn thành những nhiệm vụ được giao. Trong kỳ họp, đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền đề nghị ghi vào chương trình nghị sự những vấn đề mà đại biểu xét thấy cần thiết để Hội đồng nhân dân xem xét và quyết định; thảo luận, phát biểu ở tổ và tại hội trường; biểu quyết các nghị quyết và kết luận của kỳ họp; chất vấn Chủ tịch và các thành viên của Uỷ ban nhân dân, Thủ trưởng các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân, Chánh án Toà án nhân dân và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp. Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền tham gia dự các phiên họp của Hội đồng nhân dân cấp dưới ở nơi bầu ra mình, có quyền phát biểu nhưng không biểu quyết.
Nếu là thành viên của các cơ cấu của Hội đồng nhân dân thì đại biểu có trách nhiệm tham gia đầy đủ các hoạt động của các cơ quan đó, hoàn thành nhiệm vụ được phân công.

Hai là, hoạt động của đại biểu tại đơn vị bầu cử. Đại biểu phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, ít nhất 3 tháng một lần phải tiếp xúc với cử tri, lấy ý kiến của họ về những vấn đề sẽ bàn trong kỳ họp Hội đồng nhân dân và báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và Hội đồng nhân dân, tiếp dân theo lịch đã phân công.

Hoạt động của đại biểu tại đơn vị bầu cử không chỉ mang tính riêng lẻ mà còn có hình thức tập thể. Các đại biểu Hội đồng nhân dân được bầu ra ở một hay nhiều đơn vị bầu cử lập thành tổ đại biểu. Tổ đại biểu là hình thức sinh hoạt tập thể của đại biểu để nghiên cứu tài liệu chuẩn bị đóng góp ý kiến cho kỳ họp. Trong kỳ họp, tổ đại biểu thảo luận và đóng góp ý kiến về các vấn đề thuộc chương trình nghị sự của kỳ họp Hội đồng nhân dân. Tổ đại biểu tập hợp ý kiến đại biểu để phản ánh với đoàn thư ký kỳ họp. Tổ đại biểu phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân ở đơn vị mà đại biểu ứng cử để tổ chức tiếp xúc với cử tri, thu thập ý kiến và nguyện vọng của cử tri đóng góp cho kỳ họp.
Tìm hiểu thêm: Công chức là gì

Ba tháng một lần tổ đại biểu sinh hoạt để kiểm điểm hoạt động của tổ và bàn kế hoạch công tác, tổ chức nghiên cứu pháp luật, chính sách của Nhà nước do Thường trực Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cùng cấp thông báo.

Đại biểu Hội đồng nhân dân được đảm bảo các điều kiện để hoạt động. Đó là những đảm bảo về vật chất, đảm bảo về việc làm và đảm bảo về thân thể. Trong thời gian làm nhiệm vụ đại biểu (kỳ họp, đi giám sát) đại biểu được thoát ly công tác chuyên môn mà vẫn hưởng lương. Nếu đại biểu không phải là biên chế Nhà nước thì được hưởng thù lao ngày công tham gia hoạt động đại biểu.

Trong thời gian Hội đồng nhân dân họp, nếu không được sự đồng ý của Chủ toạ kỳ họp thì không được bắt giữ đại biểu. Nếu vì phạm pháp quả tang hoặc trong trường hợp khẩn cấp mà đại biểu bị tạm giữ thì cơ quan Nhà nước ra lệnh tạm giam giữ phải báo cáo ngay với Chủ toạ kỳ họp. Giữa hai kỳ họp Hội đồng nhân dân, nếu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ra lệnh tạm giữ đại biểu Hội đồng nhân dân thì phải thông báo cho Chủ tịch Hội đồng nhân dân cùng cấp biết.

Đại biểu Hội đồng nhân dân có thể xin thôi làm nhiệm vụ đại biểu vì lý do sức khoẻ hoặc vì lý do khác. Việc chấp nhận đại biểu xin thôi làm nhiệm vụ do Hội đồng nhân dân cùng cấp xét và quyết định.

Đại biểu Hội đồng nhân dân không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân thì tuỳ mức độ phạm sai lầm mà bị Hội đồng nhân dân hoặc cử tri bãi nhiệm. Thường trực Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cùng cấp quyết định việc đưa ra Hội đồng nhân dân hoặc đưa ra cử tri bãi nhiệm đại biểu theo đề nghị của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp.

Bài viết được thực hiện bởi: thạc sĩ, luật sư Phạm Ngọc Minh - Giám đốc Công ty Luật TNHH Everest, Giảng viên khoa Luật kinh tế - Trường Đại học Hòa Bình


Xem thêm:

Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:

  1. Bài viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị đây chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest quaTổng đài tư vấn pháp luật:19006198, E-mail: [email protected].