Luật sư tư vấn của Công ty Luật TNHH Everest về thủ tục kết hôn...
Hỏi: Tôi sinh năm 1984, người tôi lấy làm chồng sinh năm 1955, tôi đã li dị và có một con trai với người chồng cũ, chồng tôi hiện tại cũng đã li dị nhưng chưa có con, sắp tới chồng tôi về Việt Nam để công tác trong nhiều năm.Bây giờ chúng tôi muốn kết hôn, tôi có thể xin giấy xác nhận độc thân, và làm giấy đăng ký kết hôn tại nơi chúng tôi đang tạm trú không? (Quê tôi ở Đồng Nai), 2 chúng tôi có thể đi khám sức khỏe cùng nhau tại BV Chợ Rẫy hay không, hay chồng tôi phải quay về Mỹ để hoàn tất các thủ tục? (Thảo Ngọc - Bình Phước)
Trường hợp này, bạn là công dân Việt Nam cư trú trong nước kết hôn với người nước ngoài thì thẩm quyền đăng ký kết hôn có yếu tố người nước ngoài do UBND huyện thực hiện. Cụ thể tại Điều 37 Luật Hộ tịch 2014 quy định:
"1. Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi cư trú của công dân Việt Nam thực hiện đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài; giữa công dân Việt Nam cư trú ở trong nước với công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài; giữa công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài với nhau; giữa công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài với công dân Việt Nam hoặc với người nước ngoài.2. Trường hợp người nước ngoài cư trú tại Việt Nam có yêu cầu đăng ký kết hôn tại Việt Nam thì Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi cư trú của một trong hai bên thực hiện đăng ký kết hôn".
Hồ sơ đăng ký kết hôn được quy định tại Điều 30 Nghị định 123/2015/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết một số điều của luật hộ tịch:
- Hai bên nam, nữ có thể khai chung vào một Tờ khai đăng ký kết hôn;
- Giấy tờ chứng minh tình trạng hôn nhân của người nước ngoài là giấy do cơ quan có thẩm quyền nước ngoài cấp còn giá trị sử dụng xác nhận hiện tại người đó không có vợ hoặc không có chồng; trường hợp nước ngoài không cấp xác nhận tình trạng hôn nhân thì thay bằng giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền nước ngoài xác nhận người đó có đủ điều kiện kết hôn theo pháp luật nước đó.
Nếu giấy tờ chứng minh tình trạng hôn nhân của người nước ngoài không ghi thời hạn sử dụng thì giấy tờ này và giấy xác nhận của tổ chức y tế theo quy định tại Khoản 1 Điều 38 của Luật Hộ tịch 2014chỉ có giá trị 6 tháng, kể từ ngày cấp.
- Trường hợp người nước ngoài không có hộ chiếu để xuấttrình theo quy định tại Khoản 1 Điều 2 của Nghị định này thì có thể xuất trình giấy tờ đi lại quốc tế hoặc thẻ cư trú.
- Ngoài giấy tờ quy định tại Khoản 1 Điều này, nếu bên kết hôn là công dân Việt Nam đã ly hôn hoặc hủy việc kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền nước ngoài thì còn phải nộp bản sao trích lục hộ tịch về việc đã ghi vào sổ việc ly hôn hoặc hủy việc kết hôn theo quy định tại Khoản 2 Điều 36 của Nghị định này; nếu là công chức, viên chức hoặc đang phục vụ trong lực lượng vũ trang thì phải nộp văn bản của cơ quan, đơn vị quản lý xác nhận việc người đó kết hôn với người nước ngoài không trái với quy định của ngành đó.
Ngoài ra, đối với giấy xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền của Việt Nam hoặc nước ngoài xác nhận người đó không mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác mà không có khả năng nhận thức, làm chủ được hành vi của mình cho cơ quan đăng ký hộ tịch ( khoản 1 Điều 38 Luật hộ tịch). Như vậy, hai bên có thể cùng khám tại tổ chức y tế tại Việt Nam, riêng giấy chứng minh tình trạng hôn nhân của người nước ngoài sẽ phải do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp và đã được hợp pháp hóa lãnh sự tại cơ quan đại diện của Việt Nam tại nước đó.
Khuyến nghị:
- Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
- Nội dung tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận