Ranh giới giữa đúng, sai trong dịch thuật không chỉ là vấn đề cần tranh luận trong giới dịch thuật mà việc dịch không làm sai lệch tác phẩm cũng giúp thực thi tốt việc bảo hộ quyền tác giả.
Thực tế cho thấy nhiều tác phẩm dịch từng gây tranh cãi trong nước như Bản đồ và vùng đất và Hạt cơ bản (tác giả: Michel Houellebecq, dịch giả: Cao Việt Dũng); Những thứ họ mang (tác giả Tim O’brien, dịch giả: Trần Tiễn Cao Đăng; Lolita (tác giả: Vladimir Nabokov, dịch giả Dương Tường)… Ranh giới giữa đúng, sai trong dịch thuật không chỉ là vấn đề cần tranh luận trong giới dịch thuật mà việc dịch không làm sai lệch tác phẩm cũng giúp thực thi tốt việc bảo hộ quyền tác giả. Chúng tôi xin trình bày những đặc điểm nổi bật cần chú ý đối với tác phẩm phái sinh nói chung cũng như đối với tác phẩm dịch nói riêng để bạn đọc hiểu rõ hơn về những bất cập này.
Đặc điểm của tác phẩm phái sinh
Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009 (gọi tắt là Luật SHTT) quy định:
- “Tác phẩm phái sinh là tác phẩm dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, tác phẩm phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên soạn, chú giải, tuyển chọn”. (Khoản 8 Điều 4)
- "Tác phẩm phái sinh chỉ được bảo hộ theo quy định tại khoản 1 Điều này nếu không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh". (Khoản 2 Điều 14)
Tác phẩm phái sinh là tác phẩm do cá nhân/những cá nhân trực tiếp sáng tạo, được hình thành trên cơ sở một/những tác phẩm đã tồn tại (tác phẩm gốc) trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học, được thể hiện bằng bất kỳ phương thức hay hình thức nào khác biệt với phương thức hay hình thức thể hiện của tác phẩm gốc, thông qua một dạng vật chất nhất định.
Tác phẩm phái sinh có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, tác phẩm phái sinh chỉ được hình thành trên cơ sở một/những tác phẩm đã tồn tại. Tác phẩm đã tồn tại có thể còn thời hạn hoặc hết thời hạn bảo hộ quyền công bố tác phẩm và quyền tài sản. Quyền cho làm tác phẩm phái sinh thuộc nhóm quyền tài sản đối với tác phẩm, quyền này được quy định tại điểm a khoản 1 điều 20 Luật SHTT.
Ví dụ: Căn cứ theo đặc điểm trên sẽ có hai loại tác phẩm phái sinh:
- Một là sáng tạo tác phẩm phái sinh mà không cần sự cho phép của chủ sở hữu tác phẩm gốc;
- Hai là sáng tạo tác phẩm phái sinh, nhưng nhất thiết phải được sự cho phép của chủ sở hữu tác phẩm gốc.
Trong cả hai loại tác phẩm phái sinh trên thì các quyền nhân thân được quy định tại khoản 1, 2, 4 điều 19 Luật SHTT (sau đây gọi tắt là quyền nhân thân không thể chuyển giao) luôn luôn tồn tại, do đó ngay cả trong ví dụ (1) thì người sáng tạo tác phẩm phái sinh vẫn phải tôn trọng quyền nhân thân không thể chuyển giao của tác giả tác phẩm gốc. Thuật ngữ tác phẩm gốc vừa nêu là tác phẩm mà người sáng tạo tác phẩm phái sinh dựa trên nền của nó để sáng tạo tác phẩm (phái sinh) của mình.
Thứ hai, về hình thức thể hiện của tác phẩm phái sinh, pháp luật quyền tác giả không bảo hộ nội dung ý tưởng mà chỉ bảo hộ hình thức thể hiện của ý tưởng. Mặt khác, tác phẩm phái sinh không phải là bản sao của tác phẩm gốc. Do đó, trong nhiều trường hợp hình thức thể hiện của tác phẩm phái sinh phải khác biệt hoàn toàn hoặc khác biệt từng phần với hình thức thể hiện của tác phẩm gốc.
Thứ ba, về tính nguyên gốc, tác phẩm phái sinh phải do tác giả tự mình sáng tạo nên mà không sao chép từ tác phẩm/những tác phẩm khác. Thuật ngữ “tác phẩm khác” được hiểu là kể cả tác phẩm của chính tác giả đó. Để một tác phẩm phái sinh được bảo hộ thì nó phải mang dấu ấn sáng tạo của tác giả. Tuy nhiên, nếu ranh giới giữa sáng tạo từng phần và sáng tạo hoàn toàn là dễ nhận biết, ranh giới giữa sáng tạo tác phẩm phái sinh và xâm phạm quyền tác giả của tác phẩm gốc là khó nhận biết. Sự xâm phạm này thường thể hiện ở việc xâm phạm quyền nhân thân không thể chuyển giao trong quyền tác giả.
Thứ tư, về dấu ấn của tác phẩm gốc trong tác phẩm phái sinh, mặc dù tác phẩm phái sinh phải đảm bảo tính nguyên gốc như vừa phân tích, nhưng dấu ấn của tác phẩm gốc phải được thể hiện trong tác phẩm phái sinh, có nghĩa là khi nhận biết tác phẩm phái sinh thì công chúng phải liên tưởng đến tác phẩm gốc, sự liên tưởng này được thể hiện qua nội dung của tác phẩm gốc.
Cũng cần nhắc lại là pháp luật quyền tác giả không bảo hộ nội dung của tác phẩm, do đó sự liên tưởng về nội dung giữa tác phẩm phái sinh với tác phẩm gốc không làm mất đi tính nguyên gốc của tác phẩm phái sinh.
Phân loại tác phẩm phái sinh
Theo quy định tại khoản 8 Điều 4 Luật SHTT, tác phẩm phái sinh bao gồm: tác phẩm dịch, tác phẩm phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên soạn, chú giải, tuyển chọn. Các loại hình tác phẩm phái sinh vừa nêu có thể phân thành các nhóm, cụ thể như sau:
Một là có tác động đến tác phẩm gốc
Tác phẩm dịch: là tác phẩm phái sinh được thể hiện bởi ngôn ngữ khác biệt với ngôn ngữ mà tác phẩm gốc thể hiện, sự sáng tạo của tác phẩm phái sinh được thông qua cách sử dụng ngôn ngữ của tác giả. Việc dịch tác phẩm có thể phát sinh hiện tượng “tác phẩm phái sinh từ tác phẩm phái sinh”, nghĩa là tác phẩm phái sinh không được hình thành trên cơ sở tác phẩm gốc, mà lại được hình thành từ tác phẩm phái sinh khác. Việc xâm phạm quyền tác giả đối với tác phẩm gốc trong trường hợp tác phẩm dịch ít xảy ra đối với quyền nhân thân không thể chuyển giao.
Tác phẩm phóng tác, cải biên, chuyển thể: là tác phẩm ra đời dựa trên sự biến đổi tác phẩm gốc nhằm làm cho tác phẩm phù hợp với những điều kiện khai thác khác nhau. Thuật ngữ "phóng tác, cải biên chuyển thể" trong quy định của pháp luật Việt Nam về quyền tác giả được sử dụng tương đương với thuật ngữ adaptation trong tiếng Anh, có nghĩa là sự phỏng theo, việc sửa lại cho phù hợp; sự biến đổi làm cho thích hợp…
Tác phẩm chuyển thể là tác phẩm được hình thành từ tác phẩm văn học sang một loại hình khác ví dụ chuyển thể từ tác phẩm văn học thành kịch bản (tiếng Anh là dramatization, tiếng Pháp là dramatisation) sân khấu hoặc điện ảnh. Tác phẩm gốc có thể là tiểu thuyết, trường ca, truyện dài… hoặc cũng có thể là tác phẩm kịch (sân khấu) được chuyển thành kịch bản điện ảnh, nhạc kịch...
Hai là không tác động đến tác phẩm gốc
Việc phải phân loại tác phẩm phái sinh được hình thành trên cơ sở không tác động đến cấu trúc của tác phẩm gốc có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định quyền tài sản đối với tác phẩm phái sinh khi tác phẩm gốc đã hết thời hạn bảo hộ quyền tài sản.
Tác phẩm phái sinh thuộc dạng này bao gồm: tác phẩm tuyển chọn là tác phẩm dựa trên sự tập hợp, chọn lọc, sắp xếp những tác phẩm đã tồn tại theo những yêu cầu nhất định; tác phẩm biên soạn là tác phẩm biên soạn được Luật SHTT liệt kê vào dạng tác phẩm phái sinh.
Những bất cập khi tác phẩm phái sinh là bản dịch là từ tác phẩm gốc
Thứ nhất, dịch không khéo sẽ phạm luật
Theo Công ước Berne, tác phẩm hết thời hạn bảo hộ quyền tác giả sau 50 năm hoặc 70 năm (tùy theo quy định cụ thể của từng quốc gia), kể từ ngày tác giả mất. Tuy nhiên, các đơn vị phát hành đừng lầm tưởng rằng hết thời hạn bảo hộ thì muốn làm gì thì làm.
Thực tế, Công ước Berne lẫn Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam quy định tác phẩm dịch được coi là tác phẩm phái sinh từ tác phẩm gốc. Luật này cũng quy định tác phẩm phái sinh sẽ được bảo hộ nếu không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh.
Tuy nhiên, tác phẩm dịch phải tuân thủ theo tác phẩm gốc. Với những tác phẩm hết thời hạn tác quyền là chỉ hết phần quyền tài sản (tức các đơn vị phát hành sách trong nước không cần trả phí tác quyền cho tác giả) nhưng quyền nhân thân vẫn phải đảm bảo. Ví dụ, không được xuyên tạc, cắt xén tác phẩm, đảm bảo toàn vẹn tác phẩm, phải ghi tên tác giả… là bảo đảm quyền nhân thân.
Các nhà xuất bản, đơn vị phát hành sách trong nước khi không trả phí tác quyền và ồ ạt xuất bản sách hết thời hạn tác quyền phải chú trọng việc chọn lựa tác phẩm dịch tốt, không sai để tránh vi phạm quyền nhân thân của tác giả.
Thứ hai, tác phẩm phái sinh tác quyền thuộc ai?
Tác quyền tác phẩm gốc thì không khó để thực thi nhưng với tác quyền tác phẩm phái sinh vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau.
Khi tác phẩm hết thời hạn bảo hộ tác quyền dành cho tác giả (tác phẩm gốc) thì dịch giả mới có quyền. Và dịch giả cũng có quyền như tác giả gốc theo Berne (sau 50 năm hoặc 70 năm kể từ ngày dịch giả mất). Còn với tác phẩm còn quyền tác giả thì về cơ bản dịch giả không có quyền gì hết. Tác phẩm dịch lúc đó chỉ là tác phẩm phái sinh được tác giả gốc cho phép đơn vị mua bản quyền chuyển ngữ. Lúc này, đơn vị nắm được bản quyền phát hành sách trong nước lẫn dịch giả chỉ là người “làm thuê” cho tác giả gốc. Tác giả gốc mới là người nắm bản quyền chính thức bản dịch chứ không phải dịch giả.
Một số tác giả gốc chỉ cho đơn vị nhượng quyền được làm sở hữu quyền trong thời gian nhất định. Và trong thời gian nhượng quyền, bản quyền của tác phẩm tiếng Việt vẫn thuộc về tác giả gốc, dịch giả chỉ là người chuyển ngữ.
Ngược lại, một số ý kiến lại cho rằng “dịch giả giống người nặn tượng, 100 người nặn tượng có tượng đẹp, tượng xấu nhưng 100 người đó đều là tác giả của mỗi tác phẩm của họ”. Quan điểm này cho thấy, công sức người dịch cũng là công lao động nên họ có quyền sở hữu bản dịch. “Nếu tác giả gốc mất thì tác phẩm dịch vẫn còn được bảo hộ của dịch giả, ngay cả người họa sĩ thiết kế bìa, biên tập viên… vẫn còn quyền”.
Dù còn tranh cãi xung quanh việc tác quyền tác phẩm phái sinh nhưng quan trọng nhất, với tác phẩm dịch là phải đảm bảo được sự toàn vẹn của tác phẩm trong quá trình chuyển ngữ. Khi tác phẩm gốc đã hết thời hạn bảo hộ quyền tài sản trong quyền tác giả thì việc vi phạm quyền nhân thân cơ quan quản lý rất khó thẩm tra. Thế nhưng các nhà làm sách hãy chú ý, chưa cần đến cơ quan quản lý, chính độc giả sẽ là người phát hiện ra những sai sót. Độc giả bây giờ rất nhiều người đọc tác phẩm gốc và so sánh với bản dịch. Thế nên, không phải không trả phí tác quyền thì muốn làm gì thì làm.
Thứ ba, dịch thuật văn học là phục tùng hay sáng tạo?
Buổi tọa đàm với chủ đề “Dịch thuật trong thực tế xuất bản” (diễn ra vào ngày 08/05/2013 tại Trung tâm Văn hóa Pháp, Hà Nội) tiếp tục đặt ra thực tế lựa chọn của dịch giả trước vấn đề dịch thuật: Tôn trọng tuyệt đối văn bản của tác giả hay sáng tạo để phù hợp với văn hóa tiếp nhận của bạn đọc bản địa. Đó có lẽ cũng là vấn đề mấu chốt liên quan đến những tranh cãi chưa có hồi kết về một số câu trong cuốn Những thứ họ mang (nguyên tác The things they carried - Tim O’Brien) với bản dịch của Trần Tiễn Cao Đăng, do Nhã Nam liên kết cùng NXB Văn học xuất bản.
Một diễn giả chứng minh việc dịch thuật đang được công chúng rất quan tâm bằng lập luận công chúng còn chịu chê các bản dịch tức là họ còn chịu khó đọc. Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận một thực tế, không phải công chúng nào ở nước ta khi chỉ trích về một cuốn sách dịch chưa đúng, thậm chí là dung tục cũng đều đã đọc qua tác phẩm. Có bạn đọc bày tỏ phản ứng của mình đơn giản chỉ bằng một trích dẫn trên mạng từ một bạn đọc khác vô tình “vấp phải sạn”.
Ngay cả đến dịch giả lão làng Lê Hồng Sâm thừa nhận kể cả các bậc tiền bối trước kia cũng có sai sót trong các bản dịch của mình, dù đôi khi chỉ sót một chữ nhưng cũng cho thấy việc dịch không thể có được một sản phẩm tuyệt đối.
Thông thường, khi đánh giá một bản dịch thường có ba cấp độ: Chính xác và hay; chính xác nhưng không hay; hay nhưng không chính xác. Ba cấp độ này có thể cùng tồn tại trong một bản dịch.
Chia sẻ quan điểm của một học giả người Đức rằng dịch thuật là “nghệ thuật của sự chính xác”. Dịch giả Trịnh Lữ lại cho rằng một bản dịch đúng, dịch chính xác chỉ nên dành cho những lớp đào tạo, dịch văn bản hành chính, pháp luật… mà thôi. Nhiều người đọc đòi hỏi chất lượng tác phẩm dịch phải cao, nhiều khi độc giả đòi hỏi cao quá mức. Nhưng họ quên mất tác phẩm dịch còn mang văn phong, cảm thụ của người dịch.
So sánh dịch giả như một nghệ nhân, dịch giả Lương Việt Dũng tự nhận mình cũng có những lỗi sai trong văn bản dịch nhưng đó không phải là sai do thái độ thiếu cẩn trọng mà vì bản thân người dịch không sinh ra, không thấm đẫm văn hóa, ngôn ngữ bản địa của người viết nên không chuyển tải được một cách đầy đủ ý người viết.
Dịch giả Đặng Thị Hạnh cùng với việc mong mỏi độc giả không nên quá hoang mang hoặc cực đoan và quay lưng với bản dịch, nên có cái nhìn tác phẩm trong toàn bộ tổng thể, không nên chỉ vì một vài tiểu tiết mà phủ nhận công sức dịch giả.
Bài viết được thực hiện bởi: Luật gia Bùi Thị Phượng - Công ty Luật TNHH Everest
Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:
- Bài viết trong lĩnh vực pháp luật doanh nghiệp được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
- Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
- Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, E-mail: [email protected].
Bình luận