Công ty Luật TNHH Everest tư vấn về thắc mắc có phải sau khi ly dị 05 năm mới được kết hôn và bảo lãnh người sang Úc, đúng hay sai?
Hỏi: Luật sư cho em hỏi là bạn trai em qua Úc năm 2009 (kết hôn giả), bạn trai em vừa ly dị xong và cũng có quốc tịch rồi. Như vậy bạn trai em có thể về Việt Nam kết hôn và bảo lãnh vợ sang ngay trong thời gian này được không ạ, hay phải chờ 5 năm sau? Vì em nghe nói là sau khi ly dị 5 năm mới được kết hôn và bảo lãnh người. Nếu được thì thủ tục kết hôn với người nước ngoài trường hợp của em quy định thế nào? (Bình An - Ninh Bình)
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật gia Nguyễn Thành Đạt - Tổ tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì sau khi bạn trai chị đã ly dị xong thì bạn trai chị có quyền kết hôn với người khác không có thời hạn về thời gian. Tuy nhiên, vì bạn trai chị mới ly dị, cho nên,sau khi kết hônthì với việc bảo lãnh chị sang bên đó phải chờ sau 5 năm mới được bảo lãnh. Cụ thể trong Luật Di trú Úc năm 1994 sửa đổi năm 2014 có quy định như sau:
“Đối với một người là công dân Úc hoặc là thường trú nhân đang sinh sống tại Úc, nếu đã từng kết hôn với một người khác ở nước ngoài và sau đó bảo lãnh người vợ/chồng này đến Úc. Sau khi người này đến Úc, họ lại không thể tiếp tục chung sống với nhau được và phải ly hôn tại Úc. Sau khi ly hôn thì người công dân Úc này (hoặc thường trú nhân) có thể tái kết hôn với một người khác trong nước Úc hoặc ngoài nước Úc trong bất cứ thời gian nào, tuy nhiên nếu người chồng/vợ sau của người này cũng ở ngoài nước Úc và người này muốn làm hồ sơ bảo lãnh đến Úc thì người này phải chờ trong thời gian tối thiểu là 5 năm kể từ ngày người chồng/vợ trước đến Úc mới được nộp hồ sơ bảo lãnh mới”.
Cho nên, với trường hợp này của chị, sau khi chị và bạn trai kết hôn thì phải chờ 5 năm sau chị mới được bảo lãnh sang bên Úc.
Tuy nhiên, hiện tại, anh chị vẫn có thể kết hôn, và thủ tục kết hôn với người nước ngoài tại Việt Nam trong trường hợp của chị được quy định trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và nghị định 126/2014/NĐ-CP hướng dẫn Luật hôn nhân và gia đình khi anh chị đăng kí kết hôn tại Việt Namnhư sau:
Bước 1: Nộp hồ sơ đăng kí kết hôn tại Uỷ ban nhân tỉnh nơi chị cư trú.
Hồ sơ bao gồm các giấy tờ sau:
Tờ khai đăng ký kết hôn;
Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân hoặc Tờ khai đăng ký kết hôn có xác nhận tình trạng hôn nhân của công dân Việt Nam được cấp chưa quá 06 tháng, tính đến ngày nhận hồ sơ; giấy tờ chứng minh tình trạng hôn nhân của người nước ngoài do cơ quan có thẩm quyền của nước mà người đó là công dân cấp chưa quá 06 tháng, tính đến ngày nhận hồ sơ, xác nhận hiện tại người đó là người không có vợ hoặc không có chồng;
Giấy xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền của Việt Nam hoặc nước ngoài cấp chưa quá 06 tháng, tính đến ngày nhận hồ sơ, xác nhận người đó không mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác mà không có khả năng nhận thức, làm chủ được hành vi của mình;
Bản sao một trong các giấy tờ để chứng minh về nhân thân, như Giấy chứng minh nhân dân hoặc Hộ chiếu của chị, Hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị thay thế như Giấy thông hành hoặc Thẻ cư trú của bạn trai chị;
Bản sao sổ hộ khẩu hoặc sổ tạm trú (đối với công dân Việt Nam cư trú ở trong nước), Thẻ thường trú hoặc Thẻ tạm trú hoặc Chứng nhận tạm trú (đối với người nước ngoài thường trú hoặc tạm trú tại Việt Nam kết hôn với nhau).
Đối với việc bạn trai chị ly hôn tại Úc thì phải giấy do cơ quan có thẩm quyền của Úc xác nhận người đó có đủ điều kiện kết hôn theo pháp luật của Úc.
Bước 2: Khi đầy đủ hồ sơ thì chị nộp tại Sở tư pháp tỉnh. Cán bộ nhận hồ sơ kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ.Nếu hồ sơ hợp lệ thì vào sổ theo dõi, thu lệ phí, viết giấy hẹn thời gian trả kết quả; ( lệ phí sẽ là 1.000.000đ)
Bước 3: Chị nhận kết quả theo giấy hẹn trên.
Khuyến nghị:
- Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
- Nội dung tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận