Lao động
Hỏi: Đề nghị luật sư tư vấn: TH1: Tôi ký hợp đồng thử việc với 1 Công ty CP, sau khi hết hợp đồng thử việc thì tôi không thấy bên phía Công ty CP gửi văn bản thông báo cho tôi về việc hết hợp đồng lao động thử việc.Thay vào đó thì bên phía Giám đốc Công ty CP chỉ làm có 1 tờ giấy với nội dung là Quyết định tuyển dụng tôi vào làm việc tại Công ty nhưng lại không thấy bên phía Công ty làm và ký Hợp đồng lao động với tôi. Như trường hợp trên thì có hợp pháp hay không? Tôi có quyền lợi gì hay không? khi có quyết định tuyển dụng nhưng lại không ký kết hợp đồng lao động với người lao động. Quyết định đó có giá trị gì về mặt pháp lý, kinh tế... hay không thưa Luật Sư? TH2: Nếu tôi làm biên bản đề nghị xác nhận với nội dung là không còn làm việc tại Công ty CP thì bên quý Công ty đó người ta có xác nhận cho hay không? Nếu trường hợp bên Công ty đó không có xác nhận cho thì tôi phải làm thế nào? Bởi tôi và Công ty CP có chút xích mích trong công việc. ( Văn Anh - Hà Nội)
Luật gia Nguyễn Thị Hoa - tổ tư vấn pháp luật lao động công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Tại Điều 29 bộ luật lao động năm 2012 quy định về kết thúc thời gian thử việc như sau:
"1. Khi việc làm thử đạt yêu cầu thì người sử dụng lao động phải giao kết hợp đồng lao động với người lao động.2. Trong thời gian thử việc, mỗi bên có quyền huỷ bỏ thoả thuận thử việc mà không cần báo trước và không phải bồi thường nếu việc làm thử không đạt yêu cầu mà hai bên đã thoả thuận".
Theo đó, do trong thời gian thử việc hai bên đều không hủy bỏ hợp đồng thử việc mà khi kết thúc hợp đồng thử việc phía công ty lại có quyết định tuyển dụng bạn vào làm việc, thực chất là phía công ty đã nhận anh (chị) vào làm việc theo hợp đồng lao động. Việc ký hợp đồng như vậy là hoàn toàn hợp pháp và có giá trị về mặt pháp lý, kinh tế như những hợp đồng lao động khác. Do đó kể từ khi công ty ra quyết định tuyển dụng đối với anh (chị) thì anh (chị) đã được công ty nhận vào làm việc cũng như việc hưởng lương và các chế độ theo hợp đồng lao động.
Đối với vấn đề xác nhận anh (chị) không còn làm việc tại công ty:
Để xác nhận anh (chị) không còn làm việc tại công ty thì anh (chị) cần có quyết định cho thôi việc của công ty đối với anh (chị), quyết định cho thôi việc đó sẽ chứng minh anh (chị) không còn làm việc tại công ty nữa. Bởi vậy đối với trường hợp này anh (chị) cần chấm dứt hợp đồng lao động với công ty. Vì đã làm việc theo hợp đồng lao động thì việc chấm dứt hợp đồng cũng phải tuân theo các quy định của pháp luật về hợp đồng lao động. Cụ thể các trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động hợp pháp được quy định tại Điều 36, Điều 37 Bộ luật lao đông năm 2012. Việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 36, Điều 37 được coi là chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật và phải thực hiện nghĩa vụ theo Điều 43 Bộ luật lao động năm 2012 như sau:
Điều 43. Nghĩa vụ của người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật
"1. Không được trợ cấp thôi việc và phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.2. Nếu vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người sử dụng lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước.3. Phải hoàn trả chi phí đào tạo cho người sử dụng lao động theo quy định tại Điều 62 của Bộ luật này".
Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với công ty bạn cần chú ý đến thời hạn báo trước được quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 37 Bộ luật lao động năm 2012 như sau:
"2. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại khoản 1 Điều này, người lao động phải báo cho người sử dụng lao động biết trước:a) Ít nhất 3 ngày làm việc đối với các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và g khoản 1 Điều này;b) Ít nhất 30 ngày nếu là hợp đồng lao động xác định thời hạn; ít nhất 03 ngày làm việc nếu là hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng đối với các trường hợp quy định tại điểm d và điểm đ khoản 1 Điều này;c) Đối với trường hợp quy định tại điểm e khoản 1 Điều này thời hạn báo trước cho người sử dụng lao động được thực hiện theo thời hạn quy định tại Điều 156 của Bộ luật này.3. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, nhưng phải báo cho người sử dụng lao động biết trước ít nhất 45 ngày, trừ trường hợp quy định tại Điều 156 của Bộ luật này".
Nếu anh (chị) muốn chấm dứt hợp đồng lao động với công ty mà công ty không giải quyết cho anh (chị) thôi việc thì trường hợp này anh (chị) có thể yêu cầu hòa giải viên lao động hoặc Tòa án giải quyết theo quy định tại Điều 200 Bộ luật lao động năm 2012.
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận