Điều 59 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn
Hỏi: Luật sư cho hỏi, chúng tôi kết hôn năm 1980, có hai con gái, năm 1984 chồng tôi lên tp HCM xin việc và sống trên đó. Tôi sống ở Long Xuyên cùng 2 con. Những năm công tác tại Sài Gòn anh được cơ quan hoa giá 1 căn nhà trong khu tập thể của Cty, sau đó anh có quan hệ với một người đàn bà và họ ăn ở với nhau có 1 con. Mặc dù bỏ bê mẹ con tôi không nhòm ngó suốt mấy năm, nhưng khi tôi biết mọi chuyện tôi yêu cầu anh làm đơn ly dị với tôi thì anh không chịu, vì quá tức giận không muốn mọi việc kéo dài nên năm 1994 tôi quyết định làm đơn gửi tòa án xin ly hôn. Khi ra tòa, tòa có hỏi về tài sản chung, giận qua tôi trả lời tòa là không có tài sản chung và tòa có ghi là là tài sản chung không có. Vậy cho hỏi: căn nhà mà chồng tôi có trên TP HCM có được coi là tài sản chung của tôi và anh không? (nhà có trước khi chưa ly hôn) Nếu là tài sản chung thì tôi muốn lấy lại cho con tôi thì bằng cách nào? (Hà Vân - Hà Nội)
Luật gia Nguyễn Thanh Thu - Tổ tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình Công ty Luật TNHH Everest trả lời:
I. Về vấn đề căn nhà mà chồng bạn có trên Thành phố Hồ Chí Minh trong thời các bạn là vợ chồng:
Trước thời điểm 03/01/1987 (thời điểm Luật Hôn nhân gia đình 1986 có hiệu lực) thì không quy định tài sản riêng, tài sản chung nên mọi tài sản của vợ chồng đều là tài sản chung.
Sau thời điểm 03/01//1987 (Luật Hôn nhân gia đình có hiệu lực) thì theo Điều 14 Luật Hôn nhân gia đình 1986 quy định về tài sản chung như sau:"Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra, thu nhập về nghề nghiệp và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được cho chung."
Tóm lại, dù là trong thời gian nào thì theo quy định pháp luật, căn nhà đều là tài sản chung của vợ chồng. Mặc dù bạn không góp công trực tiếp vào việc kiếm tiền của chồng bạn, nhưng bạn có công trong việc chăm sóc 2 con cho chồng bạn trong thời gian chồng bạn kiếm tiền.
II. Về cách thức phân chia tài sản chung và thủ tục:
Theo Điều 59 Luật Hôn nhân gia đình 2014 quy định về nguyên tắc phân chia tài sản khi ly hôn như sau:
"Khi ly hôn, việc chia tài sản do hai bên thoả thuận, và phải được Toà án nhân dân công nhận. Nếu hai bên không thoả thuận được với nhau thì Toà án nhân dân quyết định".
Việc chia tài sản khi ly hôn, về nguyên tắc, phải theo những quy định dưới đây:
"a) Tài sản riêng của bên nào thì vẫn thuộc quyền sở hữu của bên ấy;
b) Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, nhưng có xem xét một cách hợp lý đến tình hình tài sản, tình trạng cụ thể của gia đình và công sức đóng góp của mỗi bên;
c) Trong trường hợp vợ chồng do còn sống chung với gia đình mà tài sản của bản thân vợ chồng không xác định được thì vợ hoặc chồng được chia một phần trong khối tài sản chung của gia đình, căn cứ vào công sức của người được chia đóng góp vào việc duy trì và phát triển khối tài sản chung, cũng như vào đời sống chung của gia đình. Lao động trong gia đình được coi như lao động sản xuất;
d) Khi chia tài sản, phải bảo vệ quyền lợi của người vợ và của người con chưa thành niên, bảo vệ lợi ích chính đáng của sản xuất và nghề nghiệp."
Dựa vào quy định trên, với những chi tiết mà bạn đề cập trong câu hỏi, khi Tòa án phân chia tài sản thì bạn ít nhất nhận được một phần giá trị của căn nhà. Tại phiên tòa phân chia tài sản, bạn mới ghi nhận việc không có tài sản chung. Bạn đã trả lời "tài sản chung không có" chứ không phải bạn đã chấp nhận không nhận phần của mình. Do vậy, bạn có thể làm đơn lên Tòa yêu cầu xét xử phân chia lại căn nhà này.
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật hôn nhân gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận