Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.
Hỏi: Bà Nguyễn Thị R và ông Nguyễn Văn T là 2 chị em có đến UBND xã để làm văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế của mẹ để lại là giao toàn bộ tài sản tài sản thừa kế của mẹ để lại là Quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Văn T toàn quyền được quản lý, sử dụng khối tài sản trên. Sau đó ông T đã đem Quyền sử dụng đất trên thế chấp và vì không có khả năng trả nợ nên đã làm thủ tục chuyển nhượng sổ đỏ trên cho ông Nguyễn T D tại văn phòng công chứng và ông D đã được UBND huyện cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất. Nay bà R đã làm đơn đến UBND xã khiếu nại việc chuyển nhượng đất của ông T. Theo tôi được biết thì UBND cấp xã không có thẩm quyền giải quyết đơn của bà R, nhưng trong Luật đất đai 2013 tại khoản 1 Điều 203 thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân nhưng với điều kiện là phải có biên bản hòa giải không thành của UBND cấp xã. Tôi hiểu như vậy có đúng không. Trong trường hợp này, UBND cấp xã có buộc phải mời ông T, bà R đến Ủy ban xã để hòa giải không hay chỉ càn hướng dẫn bà R gởi đơn đến Tòa án nhân dân để giải quyết và căn cứ các quy định pháp luật nào để trả lời đơn cho bà R. ( Phạm Văn Kiều - Hưng Yên)Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật gia Phạm Thị Mai Phương – Tổ tư vấn pháp luật thừa kế – Công ty Luật TNHH Everest – trả lời:
Thứ nhất: Điều 642 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định việc từ chối nhận di sản như sau:
"1. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.
2. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản; người từ chối phải báo cho những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản, cơ quan công chứng hoặc ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có địa điểm mở thừa kế về việc từ chối nhận di sản.
3. Thời hạn từ chối nhận di sản là sáu tháng, kể từ ngày mở thừa kế. Sau sáu tháng kể từ ngày mở thừa kế nếu không có từ chối nhận di sản thì được coi là đồng ý nhận thừa kế".
Vậy,trong trường hợp của bà R thì bà R không thể đòi lại được, ông T đã có toàn quyền sử dụng đối với mảnh đất và có quyền quyết định đối với mảnh đất, hiện giờ mảnh đất đã được chuyển nhượng cho người khác, đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Tuy nhiên, nếu như trong văn bản thỏa thuận giữa bà R và ông T là nhường toàn bộ thừa kế cho ông T với thỏa thuận là chỉ dùng để ở, còn mọi giao dịch khác là không được phép, nếu vi phạm có quyền đòi lại thì mới có thể đòi lại phần thừa kế mà bà R đã từ chối. Vì văn bản nhường toàn bộ thừa kế của bà R liên quan đến đất đai phải được lập thành văn bản và phải được công chứng, điều kiện trong văn bản nhường quyền thừa kế là một nội dung văn bản cũng phải được công chứng hoặc chứng thực. Trong trường hợp, điều kiện nhường thừa kế này đã được ghi nhận vào trong văn bản và đã được công chứng, chứng thực, ông T có nghĩa vụ tuân thủ điều kiện này. Nếu vi phạm thì bà R có quyền đòi lại.
Thứ hai:trong trường hợp của bà R. Bà R sẽ gửi đơn khởi kiện ra Tòa án nhân dân huyện nơi ông T cứ trú, nơi có mảnh đất.
Như vậy,bà R cần phải có đủ căn cứ xác nhận việc ông T vi phạm văn bảnthỏa thuận nhường thừa kế thì bà T mới có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết.
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận