Điều 669 Bộ luật dân sự có quy định về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc
Hỏi: Tôi sinh sống không có hôn thú với chồng tôi và chúng tôi có hai đứa con (dưới 18 tuổi). Trong giấy khai sinh của các cháu đều có tên bố cháu. Tháng 4-2013, chồng tôi mất và ông có để lại di chúc cho toàn bộ tài sản trị giá khoảng 2 tỉ đồng cho người vợ trước và ba người con của ông với vợ trước Tôi đã yêu cầu vợ trước của chồng tôi chia thừa kế cho con tôi nhưng bà không đồng ý. Vậy xin hỏi pháp luật có bảo vệ quyền được hưởng thừa kế của hai con tôi không? Tôi phải làm thế nào? (Ngọc Hòe - Hải Phòng)
Theo quy định tại Điều 646 Bộ luật dân sự 2005 thì: "Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết".
Đồng thời, theo quy định về người lập di chúc quy định tại Điều 647 Bộ luật dân sự thì:
"1. Người đã thành niên có quyền lập di chúc, trừ trường hợp người đó bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình.
2. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý".
Như vậy, di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân người để lại tài sản cho người khác trước khi chết. Nếu đủ điều kiện để lập di chúc theo Điều 647 nêu trên thì người lập di chúc có thể chỉ định người thừa kế và phân định tài sản của mình mà không cần sự đồng ý của bất kỳ ai.
Vì vậy, chồng của bạn có quyền lập di chúc để lại toàn bộ tài sản cho người vợ trước và các con của người vợ trước.
Tuy nhiên, về quyền lợi của các con bạn, Điều 669 Bộ luật dân sự có quy định về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc như sau:
"Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 642 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 643 của Bộ luật này:
1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động".
Pháp luật Việt Nam không có sự tách biệt về quyền thừa kế của con ngoài giá thú với con trong giá thú. Giấy khai sinh của các con bạn có ghi tên người cha chính là căn cứ để chứng minh quan hệ cha con ở đây. Vì 2 người con của bạn vẫn chưa thành niên (chưa đủ 18 tuổi), do đó, mặc dù không được người cha để lại thừa kế theo di chúc nhưng 2 cháu vẫn sẽ được chia một phần di sản bằng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật.
Về quyền thừa kế của bạn, pháp luật hôn nhân hiện hành chỉ công nhận quan hệ hôn nhân giữa nam nữ chung sống với nhau như vợ trước ngày 3/01/1987. Do đó, nếu như bạn chung sống với chồng trước thời điểm trên thì bạn cũng là người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc. Nếu chung sống sau thời điểm trên mà không có đăng ký kết hôn thì quan hệ hôn nhân chưa được pháp luật công nhận nên bạn không có quyền thừa kế theo quy định trên, khi đó bạn chỉ có thể đòi quyền lợi cho 2 người con của mình.
Trường hợp này bạn có thể khởi kiện ra tòa án nhân dân quận/huyện để yêu cầu chia thừa kế
Khuyến nghị:
- Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
- Nội dung tư vấn pháp luật hành chính mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận