Việc NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ phải tuân thủ theo các quy định của Bộ luật lao động để đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ cho người lao động. Nếu NSDLĐ cố tình làm trái quy định của pháp luật thì phải chịu trách nhiệm pháp lý được quy định tại Bộ luật lao động.
Hỏi: Tôi làm việc ở công ty liên doanh Z với mức lương 400USD/tháng. Tôi kí hợp đồng vô thời hạn với công ty từ ngày 04/6/1994. Đến ngày 30/6/2017 công ty cho tôi nghỉ việc với lí do tôi đã đến tuổi nghỉ hưu. Tôi thấy không đồng tình và đã đệ đơn yêu cầu công ty phải bồi thường cho tôi tiền lương trong quãng thời gian không được làm việc và hai tháng lương bắt đầu từ ngày 01/7/2017. Cho tôi hỏi phải giải quyết việc này thế nào? (Thu Nương - Nghệ An)
Luật gia Lê Thị Quỳnh - Tổ tư vấn pháp luật lao động của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Trường hợp 1: Chị đã đủ tuổi nghỉ hưu.
Thì theo khoản 1, Điều 187 Bộ luật lao động 2012 quy định: “ Người lao động bảo đảm điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội được hưởng lương hưu khi nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi ”.
Cũng theo quy định tại khoản 4 Điều 36 của Bộ luật lao động 2012 quy định về các trường hợp chấm dứt lao động: “Người lao động đủ điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm xã hội và tuổi hưởng lương hưu theo quy định tại Điều 187 của Bộ luật này” thuộc các trường hợp chấm dứt HĐLĐ.
Do đó nếu chị đã đủ tuổi nghỉ hưu thì công ty liên doanh Z hoàn toàn có thể đưa ra quyết định chấm dứt HĐLĐ đối với chị.
Trường hợp 2: Chị chưa đủ tuổi nghỉ hưu.
Trong trường hợp này theo quy định pháp luật lao động thì việc công ty liên doanh Z đưa ra quyết định cho chị nghỉ việc với lí do chị đã đến tuổi nghỉ hưu là trái quy định pháp luật về quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ. Đối với quyết định đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật lao động của NSDLĐ thì NSDLĐ phải thực hiện nghĩa vụ theo quy định tại Điều 42 Bộ luật lao động 2012.
“Điều 42. Nghĩa vụ của người sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật
1. Phải nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết và phải trả tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong những ngày người lao động không được làm việc cộng với ít nhất 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.
2. Trường hợp người lao động không muốn tiếp tục làm việc, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này người sử dụng lao động phải trả trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này.
3. Trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao động và người lao động đồng ý, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này và trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm nhưng ít nhất phải bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao động.
4. Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong hợp đồng lao động mà người lao động vẫn muốn làm việc thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này, hai bên thương lượng để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động.
5. Trường hợp vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước”.
Như vậy, trong trường hợp này thì việc đơn phương chấm dứt hợp đồng với chị của công ty Z là trái pháp luật. Do vậy, công ty Z sẽ phải nhận chị trở lại làm việc theo như hợp đồng đã giao kết, trả lại tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong những ngày người lao động không được làm việc và ít nhất hai tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận