-->

Mẹ kế có phần trong di sản của gia đình không

Sở hữu chung là sở hữu của nhiều chủ sở hữu đối với tài sản.

Hỏi: Bố mẹ tôi đã ly hôn. Tôi ở với bố tôi. Bây giờ bố tôi lấy vợ nhưng tài sản̉n ngôi nhà là của bố tôi và tôi. Nay bà vợ bố tôi bảo sang tên sổ đỏ nhưng tôi chưa sang tên, thì bà vợ bố tôi hiện nay có phần tài sản trong đó không? (Tình Hà - Ninh Bình)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Thành Đạt - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Điều 214 BLDS 2005 quy định về sở hữu chung như sau:

"Sở hữu chung là sở hữu của nhiều chủ sở hữu đối với tài sản.

Sở hữu chung bao gồm sở hữu chung theo phần và sở hữu chung hợp nhất.

Tài sản thuộc hình thức sở hữu chung là tài sản chung".

Do đó, theo thông tin bạn cung cấp thì ngôi nhà thuộc sở hữu chung của bạn và bố bạn. Hiện tại mẹ kế có ý định muốn nhận chuyển nhượngquyền sở hữu nhà ở từ việc sang tên giấy chứng nhận này cho người đó. Tuy nhiên bạn và bố của bạn chưa thực hiện việc chuyển nhượng này. Do đó,quyền sở hữu nhà ở vẫn thuộc về bạn và bố bạn. Trong quan hệ với người vợ thì ngôi nhà là tài sản riêng của người chồng (Bố bạn).

Theo Luật HN&GĐ 2014 thì tài sản riêng của vợ chồng thuộc sở hữu riêng của mỗi người.Do đó, nếu bố bạn và mẹ kế không có thỏa thuận nào khác thìmẹ kế bạn không có phần tài sản nào đối với ngôi nhà này.

Mẹ kế bạn chỉ có phần trong di sản của bố bạn khi bố bạn mất đi. Vì mẹ kế thuộc hàng thừa kế thư nhất, theo Điểm a Khoản 1Điều 676 BLDS 2005:

"1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết".

Khuyến nghị:

  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.