Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà không có quyền sử dụng đất chung với hộ gia đình thì khi ly hôn quyền lợi của bên không có quyền sử dụng đất và không tiếp tục sống chung với gia đình được giải quyết...
Hỏi:Nhà tôi gồm có cha, mẹ (đẻ) và 2 anh em trai tôi, 2 người con dâu, (tôi là người em trai). Vì những mâu thuẫn của 2 vợ chồng anh trai tôi. Nay chị dâu tôi đòi ly dị và yêu cầu phân chia tài sản là ngôi nhà mà những người đang còn sống nói trên đang ở. Cha mẹ tôi cùng đứng tên sở hữu căn nhà, vẫn còn khỏe mạnh và không có lập di chúc. Như vậy chị dâu tôi yêu cầu phân chia tài sản là ngôi nhà thì có hợp lý không? Chị dâu tôi ở hàng thừa kế thứ mấy? Quyền lợi của chị dâu như thế nào? (Trần Mỹ Linh - Hải Dương)Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật gia Phạm Thị Mai Phương - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Thứ nhất, về việc phân chia di sản thừa kế,Khoản 1 Điều 633 Bộ luật Dân sự 2005 về thời điểm mở thừa kế quy định:“Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trong trường hợp Toà án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 81 của Bộ luật này.”Vì bố mẹ bạn còn sống nên căn nhà này chưa được tính là di sản và chưa thể chia thừa kế kể cả nếu bố mẹ bạn có di chúc cho bất kỳ ai.
Thứ hai, về hàng thừa kế,Khoản 1 Điều 676 Bộ luật Dân sự 2005 quy định về hàng thừa kế:
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.”
Như vậy, con dâu không thuộc bất kỳ hàng thừa kế nào của bố mẹ chồng.
Thứ ba, về quyền lợi màchị dâu bạnđược hưởng đối với căn nhà khi ly hôn,Điều 61 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định về chia tài sản trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình như sau:
“1. Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà ly hôn, nếu tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình không xác định được thì vợ hoặc chồng được chia một phần trong khối tài sản chung của gia đình căn cứ vào công sức đóng góp của vợ chồng vào việc tạo lập, duy trì, phát triển khối tài sản chung cũng như vào đời sống chung của gia đình. Việc chia một phần trong khối tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận với gia đình; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.2. Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình có thể xác định được theo phần thì khi ly hôn, phần tài sản của vợ chồng được trích ra từ khối tài sản chung đó để chia theo quy định tại Điều 59 của Luật này.”
Đồng thời, Khoản 3 Điều 62 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định:
“Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà không có quyền sử dụng đất chung với hộ gia đình thì khi ly hôn quyền lợi của bên không có quyền sử dụng đất và không tiếp tục sống chung với gia đình được giải quyết theo quy định tại Điều 61 của Luật này.”
Áp dụng quy định trên, chị dâu bạncó thể được chia phần đối với căn nhà nếu chứng minh được tài sản của hai vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân đã được nhập vào khối tài sản chung của gia đình. Nếu có thể chứng minh được điều này, chị dâu bạn sẽ có thể được chia phần tương ứng với công sức đóng góp của chị ấy.
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận