Công ty Luật TNHH Everest tư vấn hủy giấy đăng ký kết hôn trái pháp luật.
Hỏi: Em gái của tôi ở xã A do tuổi trẻ nông nổi nên đã vụng trộm không xin phép gia đình đi đăng ký kết hônôn với bạn trai ở xã B (xã A và Xã B cùng huyện) vào năm 2013, nhưng hiện tại do còn là sinh viên nên chưa tổ chức đám cưới. Theo thời gian tình cảm của 02 người họ phai nhạt dần,và muốn chia tay, những đã trót đăng ký́ giấy chứng nhận kết hôn.Năm 2013 do làm vụng trộm nên em tôi chỉ mang chứng minh nhân dân và giấy chứng nhận độc thân (không có hộ khẩu thường trú, hay tạm vắng). Tôi có tham khảo các thủ tục cần thiết khi đăng ký kết hôn, thấy có nhắc đến giấy tờ hộ khẩu thường trú, tạm trú của cả nam và nữa.Dựa vào thiếu sót giấy tờ này, tôi có thể coi đó là chưa đúng thủ tục kết hôn và tiến hành hủy giấy kết hôn của em gái tôi được không? (Huyền Trang - Hà Nội)
Luật gia Đào Thị Thu Hường - Tổ Tư vấn pháp luật Hôn nhân và gia đình - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Theo Khoản 6, Điều 3Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì:Kết hôn trái pháp luật là việc nam, nữ đã đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng một bên hoặc cả hai bên vi phạm điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật.
Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình 2014 có quy định về điều kiện kết hôn như sau:"1. Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;b) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;c) Không bị mất năng lực hành vi dân sự;d) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này.2. Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính".
- Theo quy định tại Khoản6 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình 2014thì kết hôn trái pháp luật là việc xác lập quan hệ vợ chồng có đăng ký kết hôn, nhưng vi phạm điều kiện kết hôn do pháp luật quy định; cụ thể là việc đăng ký kết hôn do cơ quan có thẩm quyền quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình 2014thực hiện và việc đăng ký kết hôn phải theo đúng trình tự, thủ tục luật định.
- Trong trường hợp việc đăng ký kết hôn không phải do cơ quan có thẩm quyền quy định tại Điều 9thực hiện (ví dụ: việc đăng ký kết hôn giữa nam và nữ do Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi không có bên nào kết hôn cư trú thực hiện), thì việc đăng ký kết hôn đó không có giá trị pháp lý; nếu có yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật, thì mặc dù có vi phạm một trong những điều kiện kết hôn quy định tại Điều 8, Tòa án không tuyên bố hủy kết hôn trái pháp luật mà tuyên bố không công nhận họ là vợ chồng vì việc kết hôn không có giá trị pháp lý.
- Trong trường hợp việc đăng ký kết hôn không đúng trình tự, thủ tục luật địnhthì việc kết hôn đó không có giá trị pháp lý, nếu có yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật, thì mặc dù có vi phạm một trong các điều kiện kết hôn quy định tại Điều 9, Toà án không tuyên bố huỷ kết hôn trái pháp luật mà tuyên bố không công nhận họ là vợ chồng.
- Khi cá nhân, cơ quan, tổ chức theo quy định tại Điều 10có yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật do có vi phạm điều kiện kết hôn.Đối với những trường hợp kết hôn khi một bên hoặc cả hai bên chưa đến tuổi kết hôn là vi phạm điều kiện kết hôn quy định tại Điều 8. Tuy nhiên, tuỳ từng trường hợp mà quyết định.
- Đối với những trường hợp kết hôn thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điểm a,b,c và d Khoản 2 Điều 5thì raquyết định huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Tuy nhiên, nếu thuộc trường hợp quy định tại điểm c Khoản 2Điều 5cần chú ý:Nếu khi một người đang có vợ hoặc có chồng, nhưng tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài mà đã kết hôn với người khác, thì lần kết hôn sau là thuộc trường hợp cấm kết hôn quy định tại điểm cKhoản 2Điều 5. Tuy nhiên, khi có yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật họ đã ly hôn với vợ hoặc chồng của lần kết hôn trước, thì không quyết định huỷ việc kết hôn trái pháp luật đối với lần kết hôn sau. Nếu mới phát sinh mâu thuẫn và có yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn thì Toà án thụ lý vụ án để giải quyết ly hôn theo thủ tục chung.
Như vậy, theo như những gì bạn đã trình bày, có hai khả năng như sau:Một là, hai bên đã đủ điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình 2014 chỉ vi phạm về trình tự, thủ tục đăng ký kết hôn.Trong trường hợp này, theo hướng dẫn tại Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP thì Tòa án sẽ không tuyên bố hủy kết hôn trái pháp luật mà tuyên bố không công nhận họ là vợ chồng vì việc kết hôn không có giá trị pháp lý.Hai là, hai bên vừa không đủ điều kiện kết hôn vừa không tuân thủ trình tự, thủ tục luật định.Đối với trường hợp này, Tòa án sẽ ra quyết định hủy kết hôn trái pháp luật khi có yêu cầu.
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật Hôn nhân và gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận