Luật sư tư vấn hôn nhân...
Hỏi: Hai vợ chồng tôi cưới nhau năm 2006 nhưng chưa đăng ký kết hôn, hai bên gia đình tổ có tổ chức đám cưới, đến năm 2008 thì có 01 đứa con chung. Năm 2010 thì 02 vợ chồng không sống chung nữa. năm 2013 Tôi có gởi đơn ra tòa giải quyết quyền nuôi con, trong thời gian chờ giải quyết thì chồng em có được phép đăng ký kết hơn và cưới người khác được hay không? (Thu Huyền - Hà Nội)
Luật gia Đào Thị Thu Hường - Tổ Tư vấn pháp luật Hôn nhân và gia đình - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Theo quy định ại các điều 11, 14 (Luật HN&GĐ), việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan đăng ký kết hôn thực hiện theo nghi thức, như sau: phải có mặt hai bên nam, nữ kết hôn; đại diện cơ quan đăng ký kết hôn yêu cầu hai bên cho biết ý muốn tự nguyện kết hôn, nếu hai bên đồng ý kết hôn thì đại diện cơ quan đăng ký kết hôn trao Giấy chứng nhận kết hôn cho hai bên. Mọi nghi thức kết hôn không theo quy định này đều không có giá trị pháp lý. Nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng.
Mục 3 Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP của Tòa án Nhân dân tối cao, Viện kiểm sát Nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, ngày 03/01/2001, hướng dẫn thi hành Nghị quyết 35/2000/QH10, ngày 09/06/2000 của Quốc hội “về việc thi hành Luật HN&GĐ quy định cụ thể về trường hợp chung sống như vợ chồng mà không đăng ký muốn chia tay như sau: đối với trường hợp nam và nữ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 01/01/2001 trở đi mà không đăng ký kết hôn, thì theo quy định tại khoản 1 Điều 11 Luật HN&GĐ, họ không được pháp luật công nhận là vợ chồng; nếu một trong các bên hoặc cả hai bên có yêu cầu ly hôn, thì Toà án thụ lý vụ án để giải quyết và tuyên bố không công nhận họ là vợ chồng.
2. Vấn đề nuôi con và chia tài sản chung trong trường hợp hai bên nam nữ sống chung không có đăng ký kết hôn, nay xin ly hôn áp dụng tương tự như trường hợp vợ chồng ly hôn (khoản 2, khoản 3 Điều 17 Luật HN&GĐ). Do đó, việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con (áp dụng theo Điều 92 Luật HN&GĐ): Sau khi ly hôn, vợ, chồng vẫn có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Vợ, chồng thoả thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; nếu không thoả thuận được thì Toà án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ chín tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con. Về nguyên tắc, con dưới ba tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, nếu các bên không có thoả thuận khác.
Điều 10 Những trường hợp cấm kết hônViệc kết hôn bị cấm trong những trường hợp sau đây: "1. Người đang có vợ hoặc có chồng;2. Người mất năng lực hành vi dân sự;3. Giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời;4. Giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;5. Giữa những người cùng giới tính".Dựa trên đây, chồng bạn vẫn được phép kết hôn với người khác.
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật Hôn nhân và gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận