Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng.
Hỏi: Tôi làm đám cưới từ năm 1994 nhưng không đăng ký kết hôn, Chúng tôi có 02 con và tài sản là một ngôi nhà nhưng anh ấy không đóng góp gì vào việc tạo dựng. Nay tôi muốn chia tay thì có phải ra tòa và chia tài sản, phân chia quyền nuôi con không? (Huyền My - Hà Nội)
Luật gia Đào Thị Thu Hường - Tổ Tư vấn pháp luật Hôn nhân và gia đình Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Hai bạn kết hôn năm 1994 nhưng không có đăng ký kết hôn cho đến nay, trường hợp này được coi là nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng. Hậu quả của việc nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng được quy định tại khoản 1 Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 như sau: “Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này”.
Về chia con chung: Điều 15 quy định về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn: “Quyền, nghĩa vụ giữa nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng và con được giải quyết theo quy định của Luật này về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con”.
Theo đó trường hợp bạn không đăng ký kết hôn, giải quyết chia con chung vẫn theo quy định tại Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, cụ thể là khoản 2 và khoản 3 Điều 81: “2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 7 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”.
Vậy bạn có thể thỏa thuận với chồng về việc nuôi con. Nếu không thỏa thuận thì theo quy định trên, nếu con dưới 36 tháng tuổi sẽ do mẹ nuôi; con từ 7 tuổi trở lên sẽ được quyền chọn ở với cha hay với mẹ. Tòa cũng xem xét nhiều yếu tố như điều kiện kinh tế, lối sống lành mạnh của cha mẹ… có thể để bạn nuôi cả 2 con.
Về chia tài sản chung: Điều 16 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn như sau: “1. Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.2. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập”.
Theo đó việc chia tài sản là mảnh đất của bạn về nguyên tắc nếu là tài sản riêng của ai vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó; nếu là tài sản chung được chia theo thoả thuận của các bên. Nếu không thoả thuận được thì yêu cầu tán giải quyết, có tính đến công sức đóng góp của mỗi bên; ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và con. Như vậy, nếu bạn có đầy đủ chứng cứ chứng minh chồng bạn không đóng góp tạo dựng nên ngôi nhà mà chỉ do một mình bạn, tức ngôi nhà là tài sản riêng thì bạn có quyền sở hữu. Nếu không thể chứng minh hoặc chứng cứ không đủ thuyết phục, tòa án sẽ phân chia tài sản theo công sức đóng góp của mỗi bên.
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật Hôn nhân và gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận