-->

Không có thời gian chăm sóc con có được giành quyền nuôi con khi ly hôn?

Khi giải quyết Tòa án sẽ xem xét các điều kiện của bố mẹ để ra quyết định giao con cho ai nuôi để con có môi trường sống, học tập và phát triển một cách tốt nhất.

Hỏi: Sau gần 2 năm chung sống, vợ chồng tôi quyết định ly hôn. Chúng tôi có chung với nhau một bé gái vừa tròn 10 tháng tuổi. Từ khi kết hôn đến khi con gái 10 tháng tuổi, tôi chủ yếu sống ở nhà bố mẹ đẻ vì chồng tôi không chu cấp tiền cho 2 mẹ con tôi, tôi lại không đi làm. Đến 03/2015 tôi xin được việc làm, công việc chưa ổn định nên tôi gửi con về nhà để chồng tôi chăm sóc. Chồng tôi có thỏa thuận khi công việc của tôi ổn định, có thu nhập thì tôi sẽ đón cháu đi. Ngoài ra chồng tôi có nói rõ là kinh tế của tôi còn chưa vững nên anh ấy sẽ chịu trách nhiệm lo mọi chi phí để nuôi cháu để giảm bớt gánh nặng kinh tế cho tôi. Đến nay, do mâu thuẫn giữa vợ chồng ngày càng lớn, tôi muốn ly hôn. Chồng tôi nhất quyết lấy lý do là 3 tháng cháu ở với bố, tôi đã không gửi tiền về thì tôi không có quyền nuôi con. Đề nghị Luật sư tư vấn, chồng tôi nói như vậy có đúng không? Và tôi phải làm gì để giành quyền nuôi con? (Thu Phượng- Yên Bái)

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Phùng Thị Huyền - Tổ tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Theo thông tin mà anh (chị) cung cấp, khi anh (chị) tìm được 1 công việc vợ chồng anh (chị) có thỏa thuận về việc giao con cho chồng anh (chị) nuôi trong 1 thời gian nhất định và thỏa thuận 1 số quyền và nghĩa vụ liên quan.

Vợ chồng anh (chị) muốn ly hôn và có tranh chấp về quyền nuôi con, chồng chị lấy lý do là trong thời gian chồng chị chăm sóc con chị không hề có gửi tiền chu cấp cho con. Việc chồng chị nói như vậy cũng có thể được chấp nhận khi chứng minh giành quyền nuôi con trước Tòa nếu như chị không có gì để chứng minh về việc vợ chồng chị đã thỏa thuận như thế nào.

Tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn như sau:"1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan. 2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con. 3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con".

Như vậy, theo quy định trên, con dưới 36 tháng tuổi khi có tranh chấp về quyền nuôi con thì Tòa án sẽ giao trực tiếp cho mẹ nuôi, trừ trường hợp mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Một số điều kiện trực tiếp nuôi con như: "Thu nhập hàng tháng (có đảm bảo để nuôi cháu hay không); Chỗ ở ổn định (Có đảm bảo để cháu có chỗ ở lâu dài hay không); Môi trường sống (Có đảm bảo cho sự phát triển cả về tinh thần lẫn thể chất của cháu hay không); Thời gian làm việc (anh (chị) có thời gian để chăm sóc cháu hay không); Sự quan tâm, chăm sóc của cha mẹ giành cho con. Hành vi của cha mẹ (Có ảnh hưởng trực tiếp đến tinh thần và sự phát triển của trẻ).

Khi giải quyết Tòa án sẽ xem xét các điều kiện của bố mẹ để ra quyết định giao con cho ai nuôi để con có môi trường sống, học tập và phát triển một cách tốt nhất.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.