Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế
Hỏi: Mẹ tôi có mảnh đất sổ đỏ mang tên mẹ tôi. Cha mẹ tôi mất không để lại di chúc. Tôi xây nhà trên mảnh đất của cha mẹ tôi ở cũng đã được 10 năm. Mẹ tôi có 6 người con. Hiện tại gia đình tôi xảy ra tranh chấp đất đai, muốn tôi kí giấy chuyển sổ đỏ qua cho anh tôi, nhưng tôi không đồng ý. Giờ tôi muốn khởi kiện phân chia rõ ràng đất thừa kế thì phải làm như thế nào? (Thùy Trang - Nam Định)
Thứ nhất, thời hiệu khởi kiện về thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện về thừa kế được quy định tại Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 như sau:
“Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế…”
Theo thông tin bạn cung cấp thì bạn đã xây nhà trên mảnh đất của cha mẹ bạn đã được 10 năm nhưng không nói rõ thời điểm mở thừa kế (tức thời điểm cha mẹ bạn mất) là bao giờ, đã quá thời hiệu mở thừa kế hay chưa.
Thứ hai, khởi kiện phân chia di sản thừa kế.
Do ba mẹ bạn mất mà không để lại di chúc nên di sản thừa kế được chia theo pháp luật. Theo đó di sản thừa kế được chia đều cho tất cả những người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất gồm vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết; Như trường hợp của bạn thì những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất là 6 anh em bạn.
Trường hợp thứ nhất: Nếu chưa hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế thì bạn có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân cấp huyện nơi có mảnh đất do cha mẹ bạn để lại để được giải quyết.
Kèm theo đơn khởi kiện bạn nộp những chứng cứ để chứng minh cho việc khởi kiện của mình là có căn cứ và hợp pháp, gồm:
- Giấy chứng tử của ba mẹ bạn;
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có tên mẹ bạn (bản gốc hoặc bản sao có công chứng, chứng thực);
- Sổ hộ khẩu của đại gia đình hoặc giấy tờ, tài liệu chứng minh quyền thừa kế của anh chị em bạn như giấy khai sinh …
- Chứng cứ, tài liệu khác nộp trong quá trình tố tụng nếu Tòa án có yêu cầu.
Trường hợp thứ hai: nếu đã hết thời hiệu khởi kiện thì sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Căn cứ vào quy định tại mục 2.4 khoản 2 Phần I Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP như sau:
“a) Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau:
a.2. Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thảo thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của họ.
a.3. Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung”.
Theo đó, di sản của ba mẹ bạn sẽ chuyển thành tài sản chung và khi có tranh chấp thì Tòa án căn cứ vào quy định pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết. Cụ thể:
- Nếu các đồng thừa kế thỏa thuận được về phần mỗi người được hưởng thì việc chia tài sản chung được thực hiện theo thỏa thuận đó.
- Nếu các đồng thừa kế không thỏa thuận được thì việc chia tài sản chung được thực hiện theo quy định pháp luật về chia tài sản chung.
- Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
- Nội dung tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận