Theo Điều 457 Bộ luật Dân sự năm 2015, hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên. Theo đó, bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, bên được tặng cho đồng ý nhận.
Hỏi: Trong đám cưới, mẹ chồng tặng tôi một bộ kiềng, lắc trị giá 03 cây vàng. Giờ khi chúng tôi ly hôn, bà đòi lại vì cho rằng "không làm tròn bổn phận con dâu”. Việc làm này có trái quy định của pháp luật không? (Huyền My - Hà Nội) Luật gia Đào Thị Thu Hường - Tổ Tư vấn pháp luật Hôn nhân và gia đình - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Khoản 4 Điều 59 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 quy định: "Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này. Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác".
Theo Điều 457 Bộ luật Dân sự năm 2015, hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên. Theo đó, bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, bên được tặng cho đồng ý nhận.
Điều 458 quy định về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng tặng cho tài sản. Theo đó, hợp đồng tặng cho động sản có hiệu lực kể từ thời điểm bên được tặng cho nhận tài sản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Đối với động sản mà luật có quy định đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký.
Theo quy định của pháp luật, vàng bạc, đá quý… là tài sản không phải đăng ký quyền sở hữu. Do vậy, khi bên được tặng cho tài sản nhận tài sản thì việc tặng cho đã hoàn tất, quyền sở hữu tài sản đã được chuyển dịch từ người tặng cho sang người được tặng cho.
Đối chiếu với các quy định nói trên, việc mẹ chồng tặng nữ trang cho bạn trong lễ cưới mà không kèm bất kỳ điều kiện nào và bạn cũng đã đồng ý nhận thì số nữ trang đó đã thuộc sở hữu của bạn. Do vậy, việc mẹ chồng cho rằng bạn không làm tròn bổn phận con dâu trong gia đình để đòi nữ trang là không có căn cứ.
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật Hôn nhân và gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận