Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật gia Hoàng Ngọc Ánh - Tổ tư vấn pháp luật Hôn nhân và Gia đình Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Trường hợp thứ nhất, số tiền mà mẹ cho anh (chị) để mua nhà là tài sản chung của bố mẹ anh (chị).
Tài sản chung của vợ chồng được xác định khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 (Luật HN&GĐ) quy định như sau:
“Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng”.
Trong trường hợp này mặc dù bố mẹ anh (chị) không sống cùng nhau nhưng vẫn đang có quan hệ hôn nhân hợp pháp nên tài sản tạo ra trong thời gian này vẫn được xác định là tài sản chung. Khi định đoạt tài sản chung thì phải có sự thỏa thuận của hai vợ chồng. Căn cứ theo Điều 35 Luật HN&GĐ quy định: “Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận. Việc định đoạt tài sản chung phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng trong những trường hợp sau đây: Bất động sản; Động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu; Tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình”.
Căn Điều 13 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định về chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của vợ chồng như sau: “Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận….Trong trường hợp vợ hoặc chồng định đoạt tài sản chung vi phạm quy định tại Khoản 2 Điều 35 của Luật Hôn nhân và gia đình thì bên kia có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch vô hiệu”.
Như vậy, nếu số tiền mà mẹ cho anh (chị) để mua nhà mà không có sự thỏa thuận, đồng ý của bố và bố có yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng cho tài sản nay vô hiệu thì hợp đồng cho tài sản giữa mẹ và anh (chị) sẽ bị mất hiệu lực pháp luật. Anh (chị) có thể sẽ phải hoàn trả lại số tiền mà mẹ cho nhưng bố mẹ mình sẽ không có quyền hay lợi ích gì liên quan đến ngôi nhà mà anh (chị) đứng tên. Vì trên thực tế anh (chị) là người đứng tên mua nhà và hợp đồng tặng cho tài sản (bằng văn bản hoặc bằng lời nói) bị tuyên vô hiệu sẽ không ảnh hưởng đến quyền sở hữu nhà ở của anh (chị).
Trường hợp thứ hai, số tiền mà mẹ cho anh (chị) là tài sản riêng của bà: tài sản có trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế, tặng cho riêng trong thời kì hôn nhân... và những tài sản khác theo thỏa thuận theo Điều 43 Luật HN&GĐ. Hoặc bố mẹ anh (chị) có văn bản thỏa thuận chia sản chung trong thời kì hôn hoặc thỏa thuận trong tài sản có trong thời gian hai người không sống chung là tài sản riêng của mỗi người như vậy bà sẽ có quyền tự định đoạt đối với tài sản riêng của mình: mua bán, trao đổi, tặng cho
Căn cứ theo Điều 38 Luật HN&GĐ quy định chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân quy định như sau: “1. Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung, trừ trường hợp quy định tại Điều 42 của Luật này; nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. 2. Thỏa thuận về việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản. Văn bản này được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật. 3. Trong trường hợp vợ, chồng có yêu cầu thì Tòa án giải quyết việc chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại Điều 59 của Luật này”.
Do đó, hợp đồng cho tài sản (bằng văn bản hoặc lời nói) giữa mẹ và anh (chị) là hoàn toàn hợp pháp. Số tiền mẹ cho anh (chị) sẽ thuộc quyền sở hữu của anh (chị) và hơn nữa nhà ở anh (chị) đứng tên, thực hiện hợp đồng mua bán nên khi bố mẹ anh (chị) ly hôn sẽ không ảnh hưởng gì đến tài sản của anh (chị), sẽ không có quyền và lợi ích gì liên quan đến ngôi nhà mà anh (chị) đang đứng tên.
Khuyến nghị:
- Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
- Nội dung tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận