Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, hợp đồng đặt cọc phải được lập thành văn bản nhưng không bắt buộc phải công chứng.
Hỏi: Tôi đang muốn mua một ngôi nhà ở Thanh Xuân, Hà Nội. Sau khi tìm hiểu thông tin về ngôi nhà, tôi và chủ nhà đã tiến hành làm hợp đồng đặt cọc. Nhưng, tôi không hiểu rõ hợp đồng đặt cọc mua nhà có bắt buộc phải công chứng hay không? Xin Luật sư hãy giải đáp câu hỏi của tôi. (Lương Trang - Hà Nội)
Luật gia Phạm Trung Hiếu - Tổ tư vấn pháp luật hợp đồng của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Điều 358 Bộ luật Dân sự năm 2005 về đặt cọc quy định:
“1. Đặt cọc là việc một bên giao cho bên kia một khoản tiền hoặc kim khí quí, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng dân sự. Việc đặt cọc phải được lập thành văn bản. 2. Trong trường hợp hợp đồng dân sự được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng dân sự thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng dân sự thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thoả thuận khác”.
Như vậy, theo quy định trên, hợp đồng đặt cọc phải được lập thành văn bản nhưng không bắt buộc phải công chứng. Tuy nhiên, anh (chị) nên công chứng hợp đồng đặt cọc để đảm bảo tính xác thực, hợp pháp của bản hợp đồng, đồng thời đó sẽ là chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của anh (chị) trong trường hợp anh (chị) có tranh chấp với bên bán nhà khi thực hiện giao dịch.
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật hợp đồng mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận