-->

Hỏi đáp pháp luật hình sự về việc người gây thương tích mắc bệnh tâm thần?

Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự; đối với người này, phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.

Hỏi: G thực hiện hành vi cố ý gây thương tích cho Q trong tình trạng đang mắc bệnh tâm thần thì G có phải chịu trách nhiệm hình sự (TNHS) về hành vi của mình hay không ạ?Theo em thì sẽ có hai trường hợp:1. G bị mất năng lực TNHS hoàn toàn G sẽ không phải chịu TNHS?2. G mất năng lực TNHS một phần thì G có thể phải chịu TNHS.Căn cứ xác định của em là Điều 13 BLHS và mức độ bệnh của G có đúng không ạ? (Thu Ninh - Ninh Thuận)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Ngô Đức Cường - Tổ tư vấn pháp luật hình sự Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Điều 13 BLHS quy định:

"Điều 13.Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự:1. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự; đối với người này, phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.2. Người phạm tội trong khi có năng lực trách nhiệm hình sự, nhưng đã lâm vào tình trạng quy định tại khoản 1 Điều này trước khi bị kết án, thì cũng được áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, người đó có thể phải chịu trách nhiệm hình sự"

Điều 104 BLHS quy định:"Điều 104.Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;e) Có tổ chức;g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.

4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân".

Như bạn trình bày thì Gthực hiện hành vi cố ý gây thương tích cho Q trong tình trạng đang mắc bệnh tâm thần. Do đó, chúng tôi phân tích như sau:

- Nếu G gây thương tích cho Q mà thương tích dưới 11%, đồng thời không thuộc cáctrường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 104 BLHS thì G không phải chịu TNHS về tội phạm này.

- Nếu G gây thương tích thỏa mãn Điều 104 BLHS (từ 11% trở lên hoặcdưới 11% nhưng thuộc cáctrường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 104) thì xem xét TNHS như sau:

+ G mắc bệnh thâm thần làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì G không phải chịu trách nhiệm hình sự; đối với người này, phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.

+ G mắc bệnh tâm thần nhưng chưa đến mức làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì G vẫnphải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi của mình.

Do đó, bạn cần nhấn mạnh việc G bị tâm thần nhưng đã đến mứcmất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi hay chưa để xác định năng lực chịu TNHS của G. Nếu phân tích là tâm thần hoàn toàn và tâm thần một phần thì chưa chính xác theo quy định của BLHS.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật hình sự mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.