Tài sản chung vợ chồng được xác định theo Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014
Hỏi: Tôi và chồng kết hôn từ năm 1989 cho đến nay. Trong quá trình chung sống chồng tôi có vợ bé và con gái riêng bên ngoài, chồng tôi thường xuyên ngoại tình không chỉ với 1 người và với rất nhiều người, nhưng vì tôi thương các con khi ấy còn nhỏ nên vẫn cam chịu cố gắng làm ăn kiếm tiền để nuôi 3 con ăn học. Đến nay chúng đã lớn : con gái lớn sinh năm 1989 chưa lấy chồng, đứa con gái thứ 2 sinh năm 1991 đã lấy chồng và có 1 con trai, còn cậu con trai út của tôi hiện đang đi bộ đội. Nay chồng tôi đòi ra toà li dị để đòi chia tài sản. (Trần Hường - Thanh Hóa)
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật gia Nguyễn Thanh Thu - Tổ tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình Công ty Luật TNHH Everest trả lời:
-Thứ nhất, xác định tài sản chung của vợ chồng.
Theo Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình 2014:
"1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung".
Như vậy, trong trường hợp này riêng đối với tài sản là mảnh đất do mẹ chồng bạn để lại di chúc cho chồng bạn thì được xác định là tài sản riêng nên không thể xác lập là tài sản chung để phân chia sau ly hôn được.
+ Tuy nhiên, đối với tài sản là ngôi nhà 4 tầng và tiền góp vốn để thành lập công ty ( trong đó bạn chiếm giữ 30% cổ phần) thì để xác định là tài sản riêng thì bạn sẽ phải chứng minh được đó là tiền riêng của bạn bỏ ra để xây dựng, kinh doanh. Trường hợp, bạn không chứng minh được thì toàn bộ tài sản đó được hình thành trong thời kỳ hôn nhân sẽ mặc nhiên xác định là tài sản chung của vợ chồng và khi ly hôn tài sản này hai bên sẽ tự thỏa thuận. Trường hợp, không thỏa thuận được thì về nguyên tắc sẽ được chia đôi nhưng có tính đến công sức đóng góp của mỗi bên. Cụ thể:
Điều 59. Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn
"2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:
a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
3. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.
4. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.
Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
5. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
6. Tòa án nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn Điều này".
-Thứ hai, liên quan tới hợp đồng mua bán quyền sử dụng đất.
Theo thông tin bạn cung cấp ngoài tài sản trên thì còn mảnh đất mua của người chị. Tuy nhiên, do mua bán không có giấy tờ gì xác minh nên ngôi nhà về mặt pháp luật vẫn là của chị chồng bạn. Nên nếu bạn muốn đất thuộc quyền sở hữu của hai vợ, chồng để chia tài sản thì sẽ phải liên hệ với chị để thực hiện lại hợp đồng mua bán sang tên. Trường hợp, chị bạn không chấp nhận thì phải có quyền làm đơn khởi kiện gửi Tòa án để yêu cầu đòi lại số tiền trước đó đã bỏ ra mua và buộc chị sẽ phải thanh toán lại số tiền thuế mà mình nộp trong suốt quá trình sử dụng. Riêng đối với tài sản trên đất đó thì vẫn được xác định là tài sản chung của hai vợ chồng mang ra để phân chia khi ly hôn.
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật hôn nhân gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận