-->

Cố ý gây thương tích do bị khiêu khích thì có vi phạm luật không?

Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp nhất định thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

Hỏi: A và B đang ngồi ăn uống chung một chỗ nhậu, bên A có lớn tiếng và khiêu khích bên B, sau đó 2 người bên A có cầm bia qua xin lỗi và mong bên B bỏ qua, trong lúc đang xin lỗi thì bên B rút dao ra và chém bên hai người qua xin lỗi, bên A bỏ chạy, bên A có 3 người bị thương. Trường hợp này người lỡ có lời lớn tiếng qua bên B thì có vi phạm không? Và mức độ vi phạm của bên B? (TrầnMai - Hà Giang)

 >>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Ngô Đức Cường - Tổ tư vấn pháp luật hình sự Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Từ những thông tin bạn cung cấp thì theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 thì không có điều khoản nào quy định việc lớn tiếng và có cái nhìn khiêu khích người khác và vi phạm. Do đó, về phía bên A dù có lớn tiếng, hay nhìn khiêu khích bên B thì cũng không được coi là vi phạm các quy định của Bộ luật hình sự, hơn nữa bên A có thiện chí trong việc biết rằng hành động của mình như vậy là không phải nên đã chủ động đi xin lỗi bên B. Như vậy, về phía A thì A không có hành vi vi phạm pháp luật.

Về phía B, căn cứ theo Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định về tội cố ý gây thương tích, gây tổn hại sức khỏe của người khác như sau:

"1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:

a) Dùng hung khí nguy hiểmhoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;

b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;

d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

e) Có tổ chức;

g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;

i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;

k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.

4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân."

Vớihành vi rút dao ra và chém bên A thì bên B chắc chắn biết được là hành động đó sẽ gây nguy hiểm đến sức khỏe, tính mạng của bên A nhưng bên B vẫn cố tình thực hiện, vậy nên căn cứ theo quy định trên thấy rằng bên B phạm tội cố ý gây thương tích, gây tổn hại sức khoe của người khác.

Theo thông tin bạn cung cấp là bên B có hành động rút dao và chém người của bên A, vì vậy có thể thấy được là bên B có dấu hiệu của việc dùng hung khí nguy hiểm để thực hiện hành động. Cho nên có thể xảy ra các trường hợp như sau:

- Nếu thương tích của bên A là dưới 11% thì hình phạt áp dụng đối với bên B là phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

- Nếu thương tích của bên A là từ 11% đến 30% thì hình phạt áp dụng đối với bên B là phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

- Nếu thương tích của bên A là từ 31% đến 60% thì hình phạt áp dụng đối với bên B là phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.

- Nếu phạm tội dẫn đến hậu quả nghiêm trọng hơn thì hình phạt áp dụng đối với bên B là phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật hình sự mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.