Theo như anh trình bày, từ tháng 10/2009 tới 09/2015 thì giữa chị và phía doanh nghiệp đã ký kết 4 hợp đồng xác định thời hạn là 1 năm.
Khoản 2 Điều 22 BLLĐ 2012 quy định về loại hợp đồng lao động như sau:
“ Điều 22. Loại hợp đồng lao động: 1.Hợp đồng lao động phải được giao kết theo một trong các loại sau đây:...b) Hợp đồng lao động xác định thời hạn; Hợp đồng lao động xác định thời hạn là hợp đồng mà trong đó hai bên xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng trong khoảng thời gian từ đủ 12 tháng đến 36 tháng. c) Hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng. 2....Trường hợp hai bên ký kết hợp đồng lao động mới là hợp đồng xác định thời hạn thì cũng chỉ được ký thêm 01 lần, sau đó nếu người lao động vẫn tiếp tục làm việc thì phải ký kết hợp đồng lao động không xác định thời hạn”.
Chiểu theo quy định của pháp luật, trường hợp ký 4 hợp đồng lao động xác định thời hạn 1 năm là trái quy định của pháp luật. Vậy, tính tới hợp đồng thứ 3 thì theo quy định pháp luật các bên đã phải ký kết hợp đồng không xác định thời hạn.
Nếu các bên có tranh chấp, thì loại hợp đồng xác định để giải quyết tranh chấp sẽ là hợp đồng không xác định thời hạn. Mọi quyền và nghĩa vụ của người lao động và người sử dụng lao động sẽ bị ràng buộc trên cơ sở HĐLĐ không xác định thời hạn.
Điều 38 BLLĐ 2012 quy định các trường hợp người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động như sau:
“Điều 38. Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động: 1. Người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong những trường hợp sau đây: a) Người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động; b) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 12 tháng liên tục đối với người làm theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, đã điều trị 06 tháng liên tục, đối với người lao động làm theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và quá nửa thời hạn hợp đồng lao động đối với người làm theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa hồi phục. Khi sức khỏe của người lao động bình phục, thì người lao động được xem xét để tiếp tục giao kết hợp đồng lao động; c) Do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác theo quy định của pháp luật, mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc; d) Người lao động không có mặt tại nơi làm việc sau thời hạn quy định tại Điều 33 của Bộ luật này”.
Như vậy, nếu người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng không theo các căn cứ nêu trên; cộng thêm không bảo trước 45 ngày trước khi ra quyết định chấm dứt hợp đồng lao động sẽ là hành vi trái quy định của pháp luật.
“2. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động người sử dụng lao động phải báo cho người lao động biết trước: a) Ít nhất 45 ngày đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn”.
Nếu không có căn cứ chấm dứt, và không báo trước 45 ngày theo quy định của pháp luật thì anh có thể khiếu nại trực tiếp tới người đứng đầu cơ quan, để trả lời thắc mắc của anh. Trường hợp không giải quyết được, anh có quyền khởi kiện tại Tòa án quận, huyện nơi cơ quan đóng trụ sở để giải quyết tranh chấp.
Về quyền lợi được hưởng:
“Điều 42. Nghĩa vụ của người sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật: 1. Phải nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết và phải trả tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong những ngày người lao động không được làm việc cộng với ít nhất 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động. 2. Trường hợp người lao động không muốn tiếp tục làm việc, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này người sử dụng lao động phải trả trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này. 3. Trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao động và người lao động đồng ý, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này và trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm nhưng ít nhất phải bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao động. 4. Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong hợp đồng lao động mà người lao động vẫn muốn làm việc thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này, hai bên thương lượng để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động. 5. Trường hợp vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước.”
Vậy, chiểu theo khoản 1 Điều 42 BLLĐ 2012 , trường hợp người sử dụng lao động đơn phương hợp đồng trái pháp luật, thì anh sẽ nhận được tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cộng với ít nhất 2 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động. Ngoài ra, nếu vi phạm số ngày báo trước, anh còn được bồi thường một khoản tiền tương ứng với tiền lương của anh trong những ngày không được báo trước.
Trường hợp anh không tiếp tục làm việc; hoặc người sử dụng lao động không muốn tiếp tục hợp đồng thì quyền lợi của anh sẽ theo quy định tại khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều này.
Bình luận