Nếu người hứa nhận "chạy việc" là người không có khả năng xin được việc nhưng đã có những hành vi, thủ đoạn để người khác tin tưởng giao tiền thì hành vi này có thể cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Việc đưa ra các thông tin, giấy tờ giả để người xin việc tin tưởng, đưa tiền rồi chiếm đoạt là hành vi vi phạm pháp luật hình sự
Hiệu lực giao dịch việc đưa, nhận tiền “chạy việc”
Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.
Điều 117 Bộ luật Dân sự quy định điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sựhư sau:
- Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;
- Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
- Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
Giao dịch giữa bên đưa tiền và bên nhận tiền để “chạy việc” là giao dịch được thực hiện hoàn toàn do sự tự nguyện, thỏa thuận của các bên. Tuy nhiên, việc nhận tiền "chạy việc" lại là hành vi trái pháp luật, do đó giao dịch trên bị coi là vô hiệu, vì nội dung và mục đích của giao dịch vi phạm điều cấm của pháp luật.
Hậu quả pháp lý của giao dịch vô hiệu sẽ được thực hiện theo như Điều 131 Bộ luật Dân sự. Theo đó, giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập, khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, trả lại cho nhau những gì đã nhận.
Người nhận tiền sẽ phải trả lại số tiền đã nhận
Theo quy định tại Điều 122 Bộ luật Dân sự 2015 "Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 của Bộ luật này thì vô hiệu, trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác".
Căn cứ vào quy định theo Điều 122 Bộ Luật Dân sự năm 2015 như trên thì giao dịch dân sự vô hiệu, các bên phải trả lại cho nhau những gì đã nhận khôi phục tình trạng ban đầu. Trường hợp tình huống vì bên danh nghĩa chạy việc không trả lại tiền, thì bên đưa tiền để xin việc có thể khởi kiện vụ án dân sự (kèm theo chứng cứ chứng mình việc giao nhận...) để đòi lại khoản tiền.
Tùy thuộc vào tình tiết trên thực tế còn có thể xác định hành vi của người nhận tiền để “chạy việc” có cấu thành tội phạm hay chỉ là hành vi vi phạm pháp luật dân sự. Trường hợp có dấu hiệu của tội phạm bên đưa tiền có thể trình báo với cơ quan công an tố cáo về hành vi chiếm đoạt tài sản để được điều tra và giải quyết.
Truy cứu trách nhiệm hình sự
Căn cứ Điều 174 Bộ Luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
"Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ".
Trường hợp thực tế người nhận tiền không có khả năng xin được việc mà chỉ đưa ra những thông tin gian dối, giả tạo như hứa hẹn, cam kết, khẳng định… nhằm mục đích để nhận tiền rồi chiếm đoạt thì hành vi đó đã có dấu hiệu của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 139 Bộ luật hình sự.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 139 Bộ luật hình sự quy định: “Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”.
Trong trường hợp bên nhận tiền để “chạy việc” không có mục đích ban đầu mà sau khi có được số tiền đó do hoàn cảnh khách quan mà không xin được việc rồi mới nảy sinh ý định chiếm đoạt số tiền đó, không trả lại thì có thể phạm tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Luật gia Nguyễn Thị Tâm - Phòng tư vấn pháp luật dân sự của Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn 1900 6198, tổng hợp.
Khuyến nghị:
- Bài viết nêu trên được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
- Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
- Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, E-mail:[email protected],[email protected]
Bình luận