-->

Vấn đề chia di sản thừa kế khi hết thời hiệu khởi kiện

Điều 46 BLHS quy định về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

Hỏi: Trước đây, ông cố của tôi có để lại cho ông 6 (là em của ông nội tôi) 2 công đất, ông 6 tôi làm giấy ủy quyền cho cha tôi canh tác từ năm 1975 (nhưng không có chứng thực của địa phương), ông 6 tôi đã mất cách đây khoảng 20 năm. Sau này Nhà nước đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do cha tôi đứng tên, và đã đươc đổi lại lần 2 vào năm 2007.Bây giờ bà 6 và cô 5 tôi (là con của ông 6) yêu cầu gia đình tôi trả lại 1/2 số đất trên, yêu cầu vậy đúng hay sai? (Hoàng Hải - Ninh Bình)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Văn Nam - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:


Điều 46 BLHS quy định về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

“Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.”

Vì ông bạn đã mất 20 năm và không để lại di chúc nên tới nay đã hết thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế . Do vậy, cha bạn đang trực tiếp quản lý sử dụng di sản thừa kế thì sẽ tiếp tục sử dụng quản lý chúng, bà Sáu và cô Lăm không còn quyền khởi kiện, yêu cầu chia di sản thừa kế.

Trừ trường hợp được quy định tại Phần I Nghị quyết02/2004/NQ-HĐTPngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Toàn án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đìnhquy định về các trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế sau:

“a. Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau:

a.1. Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và thoả thuận việc chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo di chúc.

a.2. Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thảo thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của họ.

a.3. Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung.

b. Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu bất hợp pháp hoặc thuê, mượn, quản lý theo uỷ quyền... thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản”.

Theo quy định này, sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi đó khi có tranh chấp, yêu cầu tòa án giải quyết thì tòa án sẽ không căn cứ vào thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế mà căn cứ vào pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết.

Như vậy, khi đã hết thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, chỉ khi cha của bạn và bà Sáu, cô Lăm cùng xác nhận mảnh đất này là di sản thừa kế chưa chia thì sau đó khởi kiện ra tòa thì tòa án không áp dụng thời hiệu khởi kiện về thừa kế vàsẽ áp dụng chia tài sản chung. Nếu cha của bạn không đồng ý xác nhận mảnh đất này là di sản thừa kế chưa chia thì bà Sáu và cô Lăm sẽ không có căn cứ yêu cầu tòa án giải quyết việc chia mảnh đất.

Khuyến nghị:

  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.